Văn Miếu Quốc Tử Giám

Văn Miếu nằm ở khu vực quận Đống Đa, Hà Nội, ngay giữa 4 phố chính gồm Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Du lịch đến với Hà Nội ngàn năm văn hiến thì đây chắc chắn là địa điểm mà bạn nên ghé thăm.

Nếu đi bằng xe bus, các bạn đi những tuyến sau sẽ có những điểm dừng ngay gần khu vực này: 02, 23, 38, 25, 41.

Hiện nay, khách du lịch và người dân vào tham quan Văn Miếu phải mua vé vào cổng. Giá vé dành cho người lớn là 20.000đ và vé trẻ em là 10.000đ. Đây là mức giá khá rẻ và áp dụng chung cho cả khách Việt Nam lẫn khách nước ngoài.

Văn Miếu được xây dựng năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập thêm Quốc Tử Giám bên cạnh là trường đại học dành riêng cho con vua và các gia đình quý tộc. Đến thời vua Trần Thái Tông, Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc học viện và thu nhận cả con cái nhà thường dân có sức học xuất sắc.

Sang thời hậu Lê, đời vua Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ. Tới thời Nguyễn, Quốc Tử Giám được lập Huế. Văn miếu Thăng Long được sửa sang lại chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội.

Quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám hiện tại nằm trong khuôn viên rộng 54331 m2, bao gồm nhiều công trình kiến trúc nhỏ khác nhau. Bao bọc khuôn viên là những bức gạch vồ. Trải qua nhiều tu sửa, quần thể di tích này bao gồm Hồ Văn, Văn Miếu môn, Đại Trung môn, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, bia tiến sĩ, Đại Thành môn, nhà Thái Học.

Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người. Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn miếu thờ Khổng Tử ở Trung Quốc, tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.

Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh. Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau.

Các khu tham quan ở Văn Miếu Quốc Tử Giám

Cổng chính Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong cũng có những bức tường ngăn ra làm 5 khu, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng qua lại nhau.

Bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.

Từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn các. Khuê Văn các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85cm x 85cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp.

Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng.

Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Hai bên phải trái Khuê Văn các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ.

Khuê Văn các ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.

Gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng rùa đá. Hiện còn 82 tấm bia của các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Đó là những di vật quý nhất của khu di tích.

Là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa nhà ngoài là Bái đường, Tòa trong là Thượng cung. Đây là khu vực thờ Khổng Tử và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử).

Đây là khu nhà Thái Học. Thời Nguyễn trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội bị bãi bỏ, nhà thái học bị đổi làm nhà Khải thánh, thờ thân phụ, thân mẫu của Khổng Tử. Tuy nhiên khu nhà này đã bị phá hủy trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Khu nhà Thái Học mới được thành phố Hà Nội xây dựng lại năm 1999. Trong khu thứ năm này còn có nhà Tiền đường – Hậu Đường, là nơi thờ các vị vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An.

Ý nghĩa của Văn Miếu Quốc Tử Giám

Văn Miếu – Quốc Tử Giám không chỉ là trường đại học đầu tiên của nước ta mà còn như một ngọn nến luôn rực cháy, thắp sáng truyền thống hiếu học của người Việt. Đến nơi đây bạn dường như được tiếp thêm động lực từ những bảng vàng rực rỡ của ông cha, nạp vào nguồn năng lượng tràn đầy để vững tin trong hành trình nỗ lực học tập và khám phá tri thức nhân loại.

Tôn trọng di tích, chấp hành quy định của đơn vị quản lý di tích. Không xâm hại đến các hiện vật, cảnh quan di tích. Không xoa đầu rùa, viết, vẽ, đứng, ngồi lên bia Tiến sĩ…

Trang phục khi tới Văn Miếu nên sạch sẽ, gọn gàng. Không nên mặc váy hoặc quần quá ngắn, trang phục hở hang hay trang phục trong nhà. Không hút thuốc, đội nón, đội mũ trong khu vực Điện thờ, nhà trưng bày…

Nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng để thực hiện các hoạt động mê tín dị đoan, cờ bạc, lừa đảo…

Giữ gìn vệ sinh, bảo vệ cảnh quan môi trường: Không trèo tường, trèo cây, bẻ cành, hái hoa, giẫm lên thảm cỏ, câu cá, bơi lội, vứt rác bừa bãi.

Không mang vũ khí, chất nổ, chất dễ cháy vào khu di tích.

Để xe đúng nơi quy định, tự quản lý tư trang để tránh xảy ra mất mát.

Các hoạt động quay phim tại Văn Miếu Quốc Tử Giám chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của lãnh đạo khu di tích.

Hướng Dẫn Tham Quan Văn Miếu Quốc Tử Giám

Nếu có dịp đi du lịch Hà Nội, các bạn nên dành chút thời gian để tham quan Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của Việt Nam, nơi đây có nhiều điều thú vị để các bạn tìm hiểu và khám phá.

Văn Miếu được xây dựng vào tháng 10 năm 1070, đời vua Lý Thánh Tông. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám, kề sau Văn Miếu. Đây là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con em trong Hoàng tộc và con em các vị đại thần trong triều đình về sau mới mở rộng và thu nhận cả thường dân học xuất sắc. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là tổ hợp gồm hai di tích:

Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An – người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam;

Quốc Tử Giám – Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám trước kia là nơi dựng các tấm bia ghi tên những người đỗ tiến sĩ và thu nhận các học trò giỏi. Nay là nơi tham quan của du khách trong, ngoài nước, nơi khen tặng học sinh thi đỗ điểm cao, sinh viên giỏi xuất sắc và cũng là nơi các sĩ tử đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi.

Giá vé tham quan và giờ mở cửa

Cách đi đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Điểm tham quan

Lưu ý

Giá vé tham quan và giờ mở cửa Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Giá vé tham quan (Áp dụng cho cả khách trong và ngoài nước).

Giá vé người lớn: 30.000VNĐ

Giảm 50% cho: Người khuyết tật nặng; nhân dân ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; người có công với cách mạng; học sinh, sinh viên từ 15 tuổi trở lên (xuất trình thẻ học sinh, sinh viên)

Miễn vé tham quan: Đối với người khuyết tật đặc biệt nặng; trẻ em dưới 15 tuổi.

Giờ mở cửa:

Từ 15/4 đến 15/10 mở cửa: từ 7h30 – 17h30

Tháng còn lại: 8h00 – 17h00

Cách đi đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Từ trung tâm thành phố Hà Nội để đến tham quan Văn Miếu – Quốc Tử Giám, các bạn có thể đi bằng phương tiện cá nhân hoặc phương tiện công cộng (xe buýt, taxi)

Nếu đi bằng phương tiện cá nhân

Xuất phát từ Hồ Gươm, các bạn đi theo đường Lê Thái Tổ, rẽ phải vào đường Tràng Thi, đi về phía đường Cửa Nam, Nguyễn Khuyến, rồi rẽ trái vào đường Văn Miếu.

Nếu di chuyển bằng xe buýt, các bạn bắt các xe sau đi qua hoặc có điểm dừng lân cận khu Văn Miếu: xe số 02, 23, 38, 25, 41.

Điểm tham quan

Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm trên diện tích 54331m² bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám.

Hồ Văn (hồ Minh Đường hay hồ Giám) nằm ở đối diện cổng chính Văn Miếu bị ngăn cách bởi đường Quốc Tử Giám. Đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có gò Kim Châu, trên gò xưa kia có Phán Thuỷ đường (Văn hồ đình) là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của Nho sĩ kinh thành xưa. Trên gò hiện còn một tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 18 (1865) nói về việc tu sửa hồ Văn và dựng Phán Thủy đường.

Dọc theo chiều dài phía Tây của Văn Miếu – Quốc Tử Giám là khu vườn Giám. Nơi đây có nhà bát giác, cây cảnh, cây thế, non bộ… Khu vườn Giám hiện cũng được tôn tạo, tu sửa làm nơi dạo chơi, thư giãn cho khách tham quan và tổ chức các hoạt động văn hóa truyền thống của dân tộc..

Trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau.

Văn Miếu Môn – Cổng dẫn vào khu thứ nhất:

Phía trước Văn Miếu Môn là tứ trụ (tượng trung cho 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc) và hai tấm bia Hạ mã hai bên là mốc ranh giới chiều ngang phía trước mặt cổng. Xưa kia dù công hầu hay khanh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ mã bên này sang tới tấm bia Hạ mã bên kia mới lại được lên xe lên ngựa. Tứ trụ được xây bằng gạch, hai trụ giữa xây cao hơn, phía trên có hình 2 con nghê chầu vào. Quan niệm tâm linh cho rằng nghê là linh vật có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện.

Văn Miếu môn là kiến trúc cổng Tam quan hai tầng (cổng có ba cửa, cửa giữa cao to và xây 2 tầng), Tầng trên có ba chữ 文廟門 (Văn miếu môn). Phía ngoài có đôi rồng đá cách điệu thời Lê, bên trong có đôi rồng đá thời nhà Nguyễn.

Khu thứ nhất: Đại Trung Môn.

Từ cổng chính Văn Miếu Môn vào không gian thứ nhất gọi là khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng thứ hai là Đại Trung môn. Ngang hàng với Đại Trung môn có hai cửa nhỏ hai bên, bên trái có cửa Thành Đức (trở thành người có đức), bên phải có cửa Đạt Tài (trở thành người tài giỏi). Gian giữa cổng treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ sơn then Đại Trung môn.

Khu thứ hai: Khuê Văn Các

Qua Đại Trung môn là con đường chạy thẳng đến Khuê Văn Các – một công trình kiến trúc độc đáo xây dựng năm 1805 (triều Nguyễn), gồm hai tầng tám mái, bốn mái thượng và bốn mái hạ. Tầng dưới là bốn trụ gạch có chạm trổ hoa văn, tầng trên là kiến trúc gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía với ý nghĩa cửa tròn tượng trưng cho sao Khuê và những thanh gỗ chống tượng trưng cho những tia sáng của sao. Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ 奎文閣 (Khuê Văn Các).

Khuê Văn Các vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay của các sĩ tử đã thi trúng khoa thi hội. Ngày nay được lấy làm biểu tượng của thủ đô Hà Nội. Hai bên Khuê Văn Các là hai cửa nhỏ Bí Văn và Súc Văn. Hai cửa này cùng với gác Khuê Văn đồng thời mở ra khu vực thứ hai, khu vực giếng Thiên Quang và hai vườn bia Tiến sĩ

Khu thứ ba: Giếng Thiên Quang và vườn bia Tiến sĩ.

Giếng Thiên Quang (giếng nước soi ánh sáng mặt trời) hay còn gọi là Văn Trì (ao Văn). Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng, dẫn đến cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2 vườn bia đá ở 2 bên.

Vườn bia tiến sĩ với 82 tấm bia tiến sĩ của Việt Nam được dựng từ năm 1484 đến 1780, khắc các bài văn bia đề danh tiến sĩ Nho học Việt Nam.

Bia được dựng hai bên phải trái của giếng Thiên Quang, mặt bia đều quay về phía giếng. Giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, cửa trông thẳng xuống giếng. Trên các bia trang trí hình mặt trời, mây, hoa lá, ngọn lửa hay mặt trăng, thể hiện nhân sinh quan của người đương thời.

Khu thứ tư: Đại Thành môn – Khu điện thờ.

Cửa Đại Thành (Đại Thành môn – “cửa của sự thành đạt lớn lao”), điểm mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính.

Cũng như cửa Đại Trung, cửa Đại Thành là một kiến trúc 3 gian với hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột giữa. Chính giữa, giáp nóc có treo một bức hoành khắc 3 chữ 大成門 (Đại Thành Môn). Hai bên khắc những dòng chữ có nội dung thông báo về thời điểm xây dựng và trùng tu.

Cửa Đại Thành mở đầu cho khu vực chính của di tích, nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập nhị hiền v.v… và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa.

Hai cửa nhỏ hai bên Đại Thành Môn là Kim Thanh môn (bên phải) và Ngọc Chấn môn (bên trái). Tuy nhiên, hai cửa này không mở vào thẳng khu vực chính, mà để đi qua con đường lát gạch phía sau 2 dãy Tả Vu và Hữu Vu để tiếp tục qua sang khu thứ năm là Khải Thánh, khu cuối cùng của di tích.

Khu điện thờ:

Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng lát gạch Bát Tràng: sân Đại Bái. Hai bên là hai dãy nhà, Tả Vu và Hữu Vu, trước đây thờ bài vị của 72 học trò xuất sắc của Khổng Tử và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An. Bái đường là nơi hành lễ trong các kỳ tế tự, có những bức hoành phi, câu đối ca ngợi Nho học và Khổng Tử. Đại Điện thành gồm chín gian, là nơi thờ Khổng Tử, Tứ phối (Nhan Hồi, Tư Tử, Tăng Sâm và Mạnh Tử) và bài vị của 10 vị hiền triết.

Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U.

Sau Đại Bái Đường, song song là tòa Thượng Điện kín đáo và tối hơn Đại Bái, tạo cho nơi đây một không khí thâm nghiêm, u tịch. Đây là nơi thờ những vị tổ đạo Nho. Gian chính giữa có ngai thờ Khổng Tử. Bên trái có 2 ngai thờ Tăng Tử và Mạnh Tử; bên phải có 2 ngai thờ Nhan Tử và Tử Tư. Hai gian đầu hồi thờ Thập Triết gồm những vị: Mẫu tử, Nhiễm tử, Đoan mộc tử, Trang Tử, Bốc tử, Hữu tử, Tề tử, Ngân tử, Suyền Tôn tử, Chu tử.

Khu thứ năm: Đền Khải Thánh.

Đền Khải Thánh xưa vốn là Quốc Tử Giám (nhà Thái học), trường Đại học quốc gia đầu tiên của Việt Nam gồm giảng đường, nhà tam xá cho học sinh ở, thư viện, kho để đồ tế khí. Đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn định đô ở Huế và cho xây dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám Huế, nơi đây trở thành trường học của phủ Hoài Đức, sau xây điện Khải Thánh thờ cha mẹ Khổng Tử. Năm 1946, khu này bị chiến tranh phá huỷ hoàn toàn. Công trình nhà Thái học ngày nay là hoàn toàn mới được hoàn thành vào năm 2000 nhằm tôn vinh truyền thống văn hoá dân tộc. Nơi đây đặt tượng tưởng niệm ba vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An.

Một số lưu ý khi tham quan Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Tôn trọng di tích, chấp hành quy định của đơn vị quản lý di tích: Không xâm hại đến di vật, cảnh quan di tích; Không xoa đầu rùa, viết, vẽ, đứng, ngồi lên bia Tiến sĩ…

Trang phục sạch sẽ, gọn gàng (Không mặc váy hoặc quần quá ngắn, trang phục hở hang, trang phục trong nhà); Không hút thuốc, đội nón, đội mũ trong khu vực Điện thờ, nhà trưng bày…

Thực hiện nếp sống văn minh nơi thờ tự: Không có hành vi thiếu văn hóa, nói tục, gây mất trật tự an ninh; Có thái độ đúng mực khi hành lễ, mỗi người chỉ thắp một nén hương; Dâng lễ, thắp hương đúng nơi quy định.

Nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng để thực hiện các hoạt động mê tín dị đoan, cờ bạc, lừa đảo…

Giữ gìn vệ sinh, bảo vệ cảnh quan môi trường: Không trèo tường, trèo cây, bẻ cành, hái hoa, giẫm lên thảm cỏ, câu cá, bơi lội, vứt rác bừa bãi.

Không mang vũ khí, chất nổ, chất dễ cháy vào khu di tích.

Để xe đúng nơi quy định, tự quản lý tư trang để tránh xảy ra mất mát.

Các hoạt động quay phim tại di tích chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của lãnh đạo khu di tích.

Bài Thuyết Minh Văn Miếu Quốc Tử Giám

Chào mừng quý khách đã đến với khu di tích Văn Miếu -Quốc tử Giám Trước tiên cho phép tôi xin phép được tự giới thiệu :tên tôi là……… là thuyết minh viên tại di tich Văn Miếu -Quốc Tử Giám -là trường đại học đầu tiên và cũng là biểu tượng cho văn hoá lịch sử Việt Nam.

Hôm nay tôi rất vinh dự đuọc cùng các bạn đi tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám -một trường đại học có hằng nghìn năm trước ,là khu di tích văn hoá hằng đầu và là niềm tự hào của ngưòi dân thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của hà nội.

Để cho buổi tham quan hôm nay đựơc diễn ra an toan và vui vẻ,tôi xin lưu ý với các bạn một số điều sau:các bạn không nên nói to và nô đùa khi tham quan bên trong ,không vứt rác bừa bãi không giẫm lên cỏ ,không nên tách đoàn và đặc biệt là không nên “xoa” lên đầu các cụ rùa.

Thưa các bạn Văn Miếu là tên viết tắt của Văn Tuyên Vương Miếu tức là Miếu thờ Văn Tuyên Vương Khởng Tử.Tuy nhiên ,hiện nay mọi người hiểu Văn Miếu là Miếu Văn ,từ “Văn”mang nghĩa là văn hóa ,văn minh,văn học là nét đẹp của con người.

Văn Miếu được xây dựng vào tháng 8 năm canh tuất(tức tháng 10 năm 1070)tức năm Thần Vũ thứ 2 đời Vua Lê Thánh Tông.Ông cho lập Văn Miếu làm nơi thờ ác ông tổ Nho giáo và Nho học như Chu Công _Khổng Tử.

Nhìn tổng thể thì Văn Miếu là khu đất hình chữ nhật khá rộng với diện tích khoảng 54000m2 được bao quanh bởi một khu tường có chiều dài hơn 300m va rộng 700m,chạy từ đường Quốc Tử Giám đến đầu phố Nguyễn Thái Học.Văn Miếu xưa là đất Hữu Nghiễm huyện Thọ Xương,nay thuộc quận Đống Đa Hà Nội.Quần thể kiến trúc văn miếu được bố cục đăng đối từng khu,từng lớp theo trục bắc nam,mô phỏng tổng thể quy hoạch khu văn miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ,Sơn Đông,Trung Quốc.Tuy nhiên,quy mô ở đây đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc .Toàn bộ kiến trúc văn miếu đều là kiến trúc đầu nhà Nguyễn.Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ,loại gạch đặc trưng từ thời Lê ,có tuổi thọ trên 300 năm tuổi.

Bên ngoài có tường bao quanh bên trong được chia làm 5 khu.

Và bây giờ tôi sẽ cùng các bạn tham quan lần lựơt các lớp kiến trúc.trước tiên là Hồ Văn.

Hồ Văn xưa kia gọi là Thái Hồ,có diện tích là 12297m2,giữa hồ có gò Kim Châu,trên gò dựng Phán Thuỷ đường là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa.Nhà Phán Thuỷ nay không còn nhưng trên gò nay còn một tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 1891865)trong dịp tu sửa Văn Miếu và nạo vét Hồ Văn.

Các nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng bên cạnh giá trị về cảnh đẹp du ngoạn còn có giá trị về triết học tâm linh theo lối kiến trúc “thượng gia hạ trì”.

Đối diện với Hồ Văn là cổng Tam quan .Khu này được bắt đầu bằng Tứ Trụ và hai bia Hạ Mã ở hai bên .trước kia Tứ Trụ soi bong xuống mặt Hồ Văn nhưng nay đã bị ngăn cách bởi phố Quốc Tử Giám.

Tứ Trụ được xây bằng gạch hai trụ giữa xây cao hơn có hình hai con nghê chầu vào.theo quan niệm tâm linh xưa ,con nghê là con vật linh không hại ai,nó có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện.Hai trụ ngoài đắp nổi 4 con chim phượng xoè cánh,đuôi chắp vào nhau.Phượng là con vật linh biểu hiện cho tầng trên với ý nghĩa:đầu đội chân lí,mắt là mặt trời,lưng cõng bầu trời,long là cây cỏ,cánh là gió ,đuôi là tinh tú ,chân là đất. Vì thế nó tượng trưng cho cả vũ trụ mang tư cách vận chuyển bầu trời.

Hai tấm bia Hạ Mã được đặt trong hai nhà bia nhỏ xây gạch ,xưa kia dù công hầu hay khanh tướng ,dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ Mã nay sang tấm bia Hạ Mã kia lại mới lên ngựa lên xe đi tiếp.

Trước mắt chúng ta là lối vào chính khu Văn Miếu ,ở phía nam chính là văn miếu môn.Văn Miếu Môn tức là cổng quan ngoài cùng ,cổng Tam Quan lớn xây 2 tầng 3 cửa.Cửa giữa to,tầng trên có đề chữ”Văn Miếu Môn”.Kiến trúc cùa Văn Miếu Môn khá độc đáo và đẹp mắt.Đây là kiểu kiến trúc hai tầng tám mái .Nhìn bề ngoài ,Tam Quan là một kiểu kiến trúc riêng biệt cửa chính giữa xây hai tầng .Mặt bằng hình vuông,tầng dười to,tầng trên nhỏ chồng lên tầng dưới ,xung quanh thừa ra một hang hiên nhỏ bốn mặt có lan can.Phía bên trong tầng dưới chỉ mở một của cuốn.Đây là hai cánh của bằng gỗ lim mở vào trong,cửa hình bán nguyệt và chạm nổi hình đôi rồng chầu mạn nguyệt.Hai cửa nhỏ hai bên là bậc lên tnầg hai quan trọng.Tầng 2 chính là tam quan mở 3 cửa cuốn không có cánh cửa.Tầng trên là tám mái,bốn mái hiên và bốn mái nóc cong lên o bốn góc.Bờ nóc cũng có đắp nổi “lưỡng long chầu nguyệt”,thể hiện sự hài hoà âm dương.Ở đây có các cánh cửa ở các bậc cổng ,hình ành này xuất hiện khá nhiều .Lưỡng long chầu mạn nguỵêt nhằm biểu dương cho Nho Giáo.

Phía trước cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê ,bên trong là đôi rồng mang phong cách đời Nguyễn .Hai mặt tam quan đều được đắp nổi hai câu đối chữ Hán.Bên trái trước cổng tam quan đắp nổi cảnh “long ngư hội tụ” cá-rồng ẩn hiệntrong mây ví như cảnh thanh vân đắc lộ của các nho sinh thành đạt,bên phải là cảnh “mảnh hổ hạ sơn” núi rừng mây nước nổi bật lên dáng dấp của một con hổ hung dũng xuống núiví như các bậc thức giả khí thế bước vào đời.

Tiếp theo là “tả môn” và “hữu môn” ở hai bên nhỏ hơn và thấp hơn cũng xây bốn mái hiên và bốn mái nóc nhìn tựa như kiến trúc hai tầng .Cổng tam quan chỉ được mở khi các bậc vua quan tới thăm văn miếu và tế lễ Khổng Tử .Còn học trò và thứ dân thì phải đi bằng hai cửa ngách.Vâng ,bây giờ chúng ta sẽ thử một lần được làm vua,tiếp tục đi qua cổng giữa để vào thăm văn miếu.

Theo con đường lát gạch này dẫn tới khu thứ hai được bắt đầu bằng cửa “Đại Trung Môn”,2 bên là hai cổng nhỏ có tên là”thành đức “và ‘đạt tài” mang ý nghĩa nho giáo đào tạo con người vừa có đức vừa có tài.Cổng Đại Trung gồm 3 gian ,xây trên nền gạch cao,mái lợp ngói mũi hài ,có hai hang cột trước và sau,ở giữa là:”hàng cột chống nóc”.Bên trên cổng chính là hình haio con cá chép chầu bình móc ở giữa.Sở dĩ có hình ảnh cá chép bởi theo truyền thuyết Trung Quốc :cá vượt vũ môn.Hằng năm trời tổ chức cuộc thi kén rồng ở của Vũ-con cá nào mà nhảy qua được một lúc ba đợt khác nhau thì lập tức có tiếng sấm nổ ,cá biến thành Rồng.Và chỉ có cá chép là làm được điều đó.ngày nay các bạn nhìn cá trê đầu nó bẹp vì người ta cho rằng trong cuộc thi nó đã không vượt qua được và đầu nó va vào đá.con cá chày mắt đỏ vì nó không vượt qua nên khóc nhiều quá…Do vậy, của Vũ được dung để chỉ chốn trường thi:cá vượt vũ môn”chỉ việc thi cử ,muốn đỗ đạt thi phải tích góp kiến thức,học tập chăm chỉ.

Qua cửa Đại Trung Môn,các bạn tiếp tục đến vớikhu vực thú ba cùa Văn Miếu-Quốc Tử Giám-Khuê Văn Các.

Khuê Văn Các hay còn gọi là Gác Khuê Văn .Là một lầu vuông tám mái được xây dựng vào năm 1805 đời vua gia long triều Nguyễn.Gác dựng trên một nền vuông cao ,lát gạch Bát Tràng,kiểu dáng kiến trúc độc đáo.Tầng dưói chỉ là bốn trụ gạch,bốn bề trống không.Tầng trên là kiến trúc gỗ từ mái,lớp và phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc cát vôi.Bốn cạnh sàn gỗ có diềm trạm trổ tinh vi,bốn góc sàn làm lan can con trên cùng bằng gỗ,bốn mặt tường bịt ván gỗ ,mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống toả ra 4 phía.

Các cửa sổ tròn trong khung gỗ vuông nói lên quan niệm trời tròn-đất vuông âm dương hoà hợp cùa người xưa,của và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sức khoẻ.

Khuê văn theo cách lí giải về thiên thể ,khuê là một ngôi sao trong chòm 28 sao,là đầu Bạch Hổ phương tây có 16 ngôi sắp xếp khúc khửu giống hình chữ văn.chính vì vậy sao khuê được coi là sao chủ về văn học.Khuê Văn Các là biều tượng cho thu đô Hà Nội,biểu tượng của trí thức,biểu tượng cho thủ đô ngàn năm văn hiến.

Cạnh Khuê Văn Các là giếng Thiên Quang đầy nước trong xanh in hình Khuê Văn Các.Gác Khuê Văn xứng đáng với lời bình là một viên ngọc trong khu di tích Văn miếu-Quốc Tử Giám.Hai bên Khuê Văn Các là hai cửa Bí Văn (văn đẹp đẽ,trau truốt,sang sủa)và súc văn(văn hàm ý ,súc tích có sức truyền cảm thuyết phục con người).

Mời các bạn nhìn sang hai bên giếng Thiên Quang,đó chính là khu nhà bia,một di yích có giá trị bậc nhất tại Văn Miếu -Quốc Tử Giám.Khu nhà bia gồm 82 tấm bia chiến sĩ được chia đều sang 2 bên giếng Thiên Quang.trên bia có khắc rõ tên và quê quán của 1307 vị tiến sĩ.

Ý tưởng dựng bia được khởi sự từ đời Vua Lê Thánh Tông (1484)và các đời vua kế tiếp cho khắc tên các vị danh nhân lên bia nhằn biểu dưong các vi tiến sĩ đỗ đạt và khích lệ tinh thần hoc hành thi cử.o mỗi bên khu nhà bia dều có một toà đình vuông,với 4 mặt trống không,bên trong thờ bia,nên còn được gọi là Bi Đình.Xưa kia jhằng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cung sắp lễ vật cúng bái các vị tiên nho mà vẫn được khắc tên trên bia đá đến bây giờ.82 tấm bia tiến sĩ là 82 phong cách điêu khắc ,tuy kích thước khác nhau nhưng bia nào cũng được dựng trên lưng một con rùa,đầu ngẩng cao,4 chân xoài ra trong tư thế đang bò lên.

Như các bạn đang thấy,bia gồm 3 phần là trán bia,than bia và đế bia.

Trán bia có hình khum vòm,vơí các hoạ tiết lưỡng long chầu mạn nguyệt.

Thân bia:đây là phần quan trọng nhất của bia,nhần trên cùng sát với trán bia khắc niên đại tổ chức khoa thi.Bnê dưới là bài kí khắc theo chiều dọc của bia,đọc từ trên xuống dưới từ phải sang trái,với nội dung ca ngợi triều vua đang trị vì.tiếp theo là năm tổ chức khoa thi,số lượng thí sinh thi,số lượng người lấy đỗ,tên tuổi quê quán của người viết văn bia và người khắc bia.phnầ quan trọng nhất là tên tuổi quê quán của các vị tiến sĩ được sắp xếp từ cao xuống thấp là đệ nhất tiến sĩ,đệ nhị tiến sĩ,đệ tam tiến sĩ.

Đế bia là hình một con rùa.

Có lẽ các bạn đang thắc mắc tại sao lại là rùa phải không ạ?

Vâng ,theo quan niệm của người Việt thì rùa từ xa xưa đã gắn bó với người dân Việt Nam:Đó là thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa,rùa là xứ giả của Thuỷ Vươnggiúp Lê Lợi đại phá quân Minh…hơn thế Rùa là một trong tứ linh,bung phặng tượng trưng cho đất mang yếu tố âm,mai khum tượng trưng cho trời mang yếu tố dương tượng trưng cho trời.vì thế rùa hội tụ cả âm và dương.ngoài ra Rùa còn có ý nghĩa là trường tồn và vĩnh cửu.Bia đá đặt trên lưng rùa nhằm khẳng đinh sự trường tồn của trí tuệ của tinh hoa dân tộc việt.

82 tấm bia có ghi 1307 nhân vật trong đó có 17 trạng nguyên,19 bảng nhãn,47 thám hoa,284 hoàng giáp và 938 tiến sĩ.

Người được khắc tên trên bia đầu tiên là ông Nguyễn Trực(1442)người cuối cùng được khắc tên trên bia là Phạm Huy Ôn(1779).người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất là ông Bàn Tử Quang và đỗ khi tuổi mới 13,trẻ nhất là Nguyễn Hiền.Qua văn bia chúng ta vẫn thấy có những vị danh nhân vẫn được lưu truyền như nhà sử học Ngô Sĩ Liên đỗ tiến sĩ năm 1442,nhà ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm……nhìn vườn bia các bạn có thể thấy nhiều tấm bia với kiến trúc khác nhau bởi chúng được làm trong thời gian khác nhau.

Các bia khắc vào thế kỷ 15 có 14 chiếc ,những tấm khắc vào thế kỷ 17 có 25 chiếc ,những tấm bia loại ba được xây dựng vào thế kỷ 18 .ngoài ra còn có một số bia không thuộc loại nào.Các bạn có thấy những hàng chữ bị xóa trên bia không ạ?đó là o khi triều Nguyễn lên cầm quyền d0 có những mâu thuẫn với triều đình trước đã cho xoá đi.Nếu ta tính từ khoa thi Nhâm Tuất (1442) tới khoa thi Đinh mùi 1789 thì phải có 124 kỳ thi và phải có 117 bia tiến sĩ.Nhưng sau bao chiến tranh thì hiện nay chỉ còn 82 bia.

Vâng tôi và các bạn vừa được tham quan khu nhà bia một niềm tự hào của nền văn hoá việt,và sau đây xin mời các bạn tiếp tục đến với khu vực thứ tư của văn miếu đó là Đại Trung Môn và Nhà Đại Bái.

Đại Trung Môn là khu vực chính thờ Khổng Tử và các bậc hiền triết bao gồm Đại Thành,nhà Đại Bái và hai dãy Đông Vu ,Tây Vu.

Cửa Đại Thành 3 giam 2 cột hiên trước và sau giống như cửa Đại Trung một hang giữa đỡ xà nóc,ba gian đều được lắp của gỗ sơn đỏ trên có hoạ tiết rồng,mây.Gian giữa đề ba chữ :Đại Thành Môn.Cửa Đại Thành là cửa của sự thành đạtlớn lao mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính mang một cái tên đấy ý nghĩa về học vấn,đạo đức.Hai bên cổng đại thành có 2 cửa phụ :kim thanh ở phía đông và ngọc chấn ở phía tây.đây là 2 lối vào sân đại bái và điện đại thành ,bởi ở đây trước kia chỉ tế Khổng Tử thì cổng đại thành mới mở.chúng ta đang đứng trên sân đại bái,trước mặt là toà đại bái và điện đại thành,2 bên là dãy nhà đông vu và tây chúng tôi dãy nhà này đều gồm 9 gian.Trước đây 2 bên đều xây 5 bệ,trên có 5 khám bài thờ Thất Thập nhị hiền -đều là học trò của Khổng Tử.Kiến trúc cũ đã bị phá vỡ vào năm 1946,kiến trúc hiện nay đã được xây dựng lại năm 1954.Hiện nay ở đây trưng bày phòng tranh và bán đồ lưu niệm.Toà Bái Đường là nơi tổ chức các nghi thức tế lễ ,do vậy ở chính giữa đặt một hương án trên bày đồ thờ .Hai bên hương án có 2 con hạc đứng trên lưng rùa.hạc là biểu hiện cho sự tinh tuý, thanh cao.Hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện cho sự hài hoà giữa trời và đất,giữa hai cực âm dương.hình ảnh hạc đứng trên lưng rùa còn thể hiện long thuỷ chung,biết tương trợ giúp đỡ nhau cùa những người bạn tốt khi gặp khó khăn.phía trên hương án có bức hoành phi :”Vạn Thế Sư Biểu”-người thầy tiêu biểu của muôn đời.4 chữ này do vua Khang Hy tặng cho Khổng Tử.và ở gian đầu hồi phía đông còn bức hoành phi “cổ kim nhật nguyệt” và chuông bích ung đều cửa tư nghiệp Quốc Tử Giám quận công Nguyễn Nghiễm là cha của Nguyễn Du làm 1768.bây giờ chúng ta tiếp tục đến với Điện Đại Thành.

Điện Đại Thành là nơi thờ Khổng Tử ,Tứ Phối và Thập Triết.

Gian chính là nơi thờ Khổng Tử .Khổng Tử (551-479TCN) là một nhà tư tưởng ,nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc.Ông sinh tai ấp Trâu,làng Xương Bình ,nước Lỗ(nay là huyện Khúc Phụ,Sơn Đông,Trung Quốc.Khổng Tử là người sáng lập ra đạo nho ở Trung Quốc.chủ yếu dạy về đạo làm người.Trong khi Đức Khổng Tử được người đời tôn là Vạn Thế Sư Biểu thì Tứ Phối là các học trò của ông lại được phối hợp thờ tại các Văn Miếu ở Trung Quốc và Việt Nam.Họ là Nhan Hồi ,Tăng Sâm,Tử TưVà Mạnh Tử.

Theo cánh tay tôi,các bạn đang nhìn thấy tượng thờ Nhan Tử.là học trò giỏi nhất của Đức Khổng Tử ,đúng đầu trong khoa đức hạnh của của Khổng.Được người đời xưng tụng là Phục Thánh Nhan Tử.

Cạnh là Thuật Thánh Tử Tư(cháu nội của Khổng Tử).Tử tư không theo học trực tiếp với ông nội mà theo hoc Tăng Tử-một học trò cùa Khổng Tử.Tử Tư tạo nên một phái lớn trong Nho Giáo là phái tử tư.

Đối diện là tượng thờ Tông Thánh Tăng Tử và Á Thánh Mạnh Tử.

Là học trò duy nhất hiểu được đạo Nhất quán của Khổng Tử và viết nên sách Luận Ngữ.Tăng Tử cũng được đời sau tôn lên làm gương hiếu thứ 3 trong nhị thập tứ hiếu.

Mạnh Tử là học trò của Tử Tư.Ông là người soạn sách mạnh tử và lập ra thuyết tánh thiện(nhân chi sơ tánh bổn thiện).Nhười ta tôn Mạnh từ là bav65 thánh đúng hang thứ nhì dưói Khổng Tử.

Hai gian đầu hồi là 10 bia đá bài vị Thập Triết,là nhũng người tiêu biểu cho 4 khoa:Đức hạnh,ngôn ngữ,chính trị,văn học.

Nhà tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học,là nơi tổ chức các hội nghị,hội thảo khoa học,văn hoá,nghệ thuật dân tộc.

Hậu đường là nơi thờ Chu Văn An-một ngưòi thầy đức cao vọng trọng.ông đỗ thái học sinh đời Trần nhưng không lên làm quan mà về quê dạy học,ông đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.Dưới triều Trần Minh Tông ông được mời ra dạy học cho thái tử Trần Vượng.đến triều vua Trần Dụ Tông,gian thần lộng hành.bị từ chối Thất Trảm sớ.Ông đã từ quan về ở ẩn tại ní phượng hoàng(chí linh,hải dương).ông mấy năm 78 tuổi,được truy tặng tước Văn Trinh Công,ban tên thuỵ là Khang Tiết và cho thờ ở Văn Miếu.

Theo tay tôi là 2 mô hình Văn Miếu-Quốc Tử Giám xưa và nay.

Văn Miếu ngày xưa có diên tích rộng,bao gồm toàn bộ khu vực của bệnh viện Sanh pôn và bảo tang mỹ thuật hiện nay và cả khu hồ văn rộng lớn.

Mời các bạn đến xem mô hình văn miếu-quốc tử giám.cùng với sự phát triển của đất nước thì khu vực này đã bị thu hẹp.Hiện nay diên tích của văn miếu-quốc tử giám chỉ còn 54331m2.còn kiến trúc được giữ lại trên nền đất nhà thái học gồm 2 tầng tầng 1 thờ Chu Văn An.Tầng 2 là nơi thờ 3 vị vua có công trong việc tu sủa và xây dựng văn miếu quốc tử giám là lý thánh tông,lý nhân tông và lê thánh tông.Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của nước ta.Trước đây chỉ có các vị Thái tử được học sau đó mở rộng quy mô hơn .Thời gian học tập là 3 năm, các thi sinh phỉa trải qua 3 cuộc thi :hương,hội,đình.

Xin mời các bạn đến với tầng 2 của nhà thái học.

ở gian chính giửa thờ vua Lý Thánh Tông,sinh năm 1023,ở ngôi được 17 năm,thọ 50 tuổi .ông là người đổi tên nước ta từ Đại cồ việt sang Đại việt.

Bên tay phải các bạn là bàn thờ Lý Nhân Tông.Ngài là người học trò đầu tiên của quốc tử giám(khi ông chỉ mới lên 5).lý nhân tông sinh năm 1066,mat năm 63 tuổi.ông ở ngôi được rất lâu(56 năm).năm 1076 ông đã cho phép triều đình lập ra quốc tử giám và cho chon những hiền tài vào đào tạo ,phục vụ cho đất nước.

Bên tay trái các bạn là tưọng thờ vua Lê Thánh Tông.Ông la 2người kế thừa và nâng cao tầm vóc của quốc từ giám.ông lên ngôi được 38 năm.được người đời đánh giá là minh mẫn,sáng suốt,thâm tuý về văn,giỏi giang về võ…

Ba vị vua là tinh hoa của thời kỳ phong kiến việt nam khi biết lấy sự học làm cái gốc cho sự nghiệp dựng nứơc và giữ nước.

Vâng thưa các bạn .vậy là tầng 2 của nhà thái học đã kết thúc buổi tham quan di tích văn miếu-quốc tử giám của chúng ta ngày hôm nay.

Tôi và các bạn đã cùng nhau đến với những giá trị nhân văn ý nghĩa,độc đáo.truyền thống hiếu học của dân tộc việt ta.đặc biệt là 82 tấm bia tiến sĩ,niềm tự hào của tinh hoa trí tuệ việt nam.

Qua buổi tham quan này các bạn đã có được những kiến thức về nền giáo dục việt nam.dồng thời nâng cao niềm tự hào của nòi giống tiên dòng.

Vâng,và trước khi kết thúc buổi tham quan xin hỏi có bạn nào có thắc mắc gì không.hướng dẫn viên sẽ giải thích trong tầm hiểu biết.

Xin chào và hẹn gặp lại. -st-

Tài Liệu Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám

Chào mừng quý khách đã đến với khu di tích Văn Miếu -Quốc tử Giám

Hôm nay, tôi rất vinh dự được cùng các bạn đi tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám -một trường đại học hàng nghìn năm trước, là khu di tích văn hoá hàng đầu và là niềm tự hào của người dân thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Hà Nội.

Để cho buổi tham quan hôm nay đựơc diễn ra an toàn và vui vẻ, tôi xin lưu ý với các bạn một số điều sau: Các bạn không nên nói to và nô đùa khi tham quan bên trong, không vứt rác bừa bãi, không giẫm lên cỏ, không nên tách đoàn và đặc biệt là không nên “xoa” lên đầu các cụ rùa.

Thưa các bạn Văn Miếu là tên viết tắt của Văn Tuyên Vương Miếu tức là Miếu thờ Văn Tuyên Vương tước hiệu của đức Khổng Tử. Tuy nhiên, hiện nay mọi người hiểu Văn Miếu là Miếu Văn, từ “Văn”mang nghĩa là văn hóa, văn minh, văn học là nét đẹp của con người.

được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học”. Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.

Nhìn tổng thể thì Văn Miếu là khu đất hình chữ nhật khá rộng với diện tích khoảng 54000m2 được bao quanh bởi một khu tường có chiều dài hơn 300m va rộng 700m, chạy từ đường Quốc Tử Giám đến đầu phố Nguyễn Thái Học. Văn Miếu xưa là đất Hữu Nghiễm, huyện Thọ Xương nay thuộc quận Đống Đa Hà Nội. Quần thể kiến trúc Văn Miếu được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục bắc nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu văn miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc .Toàn bộ kiến trúc văn miếu đều là kiến trúc đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ, loại gạch đặc trưng từ thời Lê có tuổi thọ trên 300 năm tuổi.

Bên ngoài có tường bao quanh bên trong được chia làm 5 khu.

Và bây giờ tôi sẽ cùng các bạn tham quan lần lựơt các lớp kiến trúc, trước tiên là Hồ Văn.

Hồ Văn xưa kia gọi là Thái Hồ, có diện tích là 12297m2, giữa hồ có gò Kim Châu, trên gò dựng Phán Thuỷ đường là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa. Nhà Phán Thuỷ nay không còn nhưng trên gò nay còn một tấm bia dựng trong dịp tu sửa Văn Miếu và nạo vét Hồ Văn.

Các nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng bên cạnh giá trị về cảnh đẹp du ngoạn còn có giá trị về triết học tâm linh theo lối kiến trúc “thượng gia hạ trì”.

Đối diện với Hồ Văn là cổng Tam quan. Khu này được bắt đầu bằng Tứ Trụ và hai bia Hạ Mã ở hai bên. Trước kia Tứ Trụ soi bóng xuống mặt Hồ Văn nhưng nay đã bị ngăn cách bởi phố Quốc Tử Giám.

Tứ Trụ được xây bằng gạch hai trụ giữa xây cao hơn có hình hai con nghê chầu vào. Theo quan niệm tâm linh xưa, con nghê là con vật linh không hại ai, nó có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện. Hai trụ ngoài đắp nổi 4 con chim phượng xoè cánh, đuôi chắp vào nhau. Phượng là con vật linh biểu hiện cho tầng trên với ý nghĩa: đầu đội chân lí, mắt là mặt trời, lưng cõng bầu trời, long là cây cỏ, cánh là gió, đuôi là tinh tú, chân là đất. Vì thế nó tượng trưng cho cả vũ trụ mang tư cách vận chuyển bầu trời.

Hai tấm bia Hạ Mã được đặt trong hai nhà bia nhỏ xây gạch ,xưa kia dù công hầu hay khanh tướng ,dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ Mã nay sang tấm bia Hạ Mã kia lại mới lên ngựa lên xe đi tiếp.

Trước mắt chúng ta là lối vào chính khu Văn Miếu, ở phía nam chính là văn Miếu Môn. Văn Miếu Môn tức là cổng quan ngoài cùng, cổng Tam Quan lớn xây 2 tầng 3 cửa. Cửa giữa to, tầng trên có đề chữ”Văn Miếu Môn”. Kiến trúc của Văn Miếu Môn khá độc đáo và đẹp mắt. Đây là kiểu kiến trúc hai tầng tám mái . Nhìn bề ngoài, Tam Quan là một kiểu kiến trúc riêng biệt cửa chính giữa xây hai tầng. Mặt bằng hình vuông, tầng dười to, tầng trên nhỏ chồng lên tầng dưới, xung quanh thừa ra một hang hiên nhỏ bốn mặt có lan can. Phía bên trong tầng dưới chỉ mở một của cuốn. Đây là hai cánh của bằng gỗ lim mở vào trong, cửa hình bán nguyệt và chạm nổi hình đôi rồng chầu mạn nguyệt. Hai cửa nhỏ hai bên là bậc lên tầng hai quan trọng. Tầng 2 chính là tam quan mở 3 cửa cuốn không có cánh cửa. Tầng trên là tám mái, bốn mái hiên và bốn mái nóc cong lên ở bốn góc. Bờ nóc cũng có đắp nổi “lưỡng long chầu nguyệt”, thể hiện sự hài hòa âm dương. Ở đây có các cánh cửa ở các bậc cổng, hình ảnh này xuất hiện khá nhiều. Lưỡng long chầu mạn nguỵêt nhằm biểu dương cho Nho Giáo.

Phía trước cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê, bên trong là đôi rồng mang phong cách đời Nguyễn. Hai mặt tam quan đều được đắp nổi hai câu đối chữ Hán. Bên trái trước cổng tam quan đắp nổi cảnh “long ngư hội tụ” cá-rồng ẩn hiện trong mây ví như cảnh thanh vân đắc lộ của các nho sinh thành đạt, bên phải là cảnh “mảnh hổ hạ sơn” núi rừng mây nước nổi bật lên dáng dấp của một con hổ hung dũng xuống núi ví như các bậc thức giả khí thế bước vào đời.

Tiếp theo là “tả môn” và “hữu môn” ở hai bên nhỏ hơn và thấp hơn cũng xây bốn mái hiên và bốn mái nóc nhìn tựa như kiến trúc hai tầng. Cổng tam quan chỉ được mở khi các bậc vua quan tới thăm văn miếu và tế lễ Khổng Tử. Còn học trò và thứ dân thì phải đi bằng hai cửa ngách.Vâng, bây giờ chúng ta sẽ thử một lần được làm vua, tiếp tục đi qua cổng giữa để vào thăm Văn Miếu.

Theo con đường lát gạch này dẫn tới khu thứ hai được bắt đầu bằng cửa “Đại Trung Môn”, 2 bên là hai cổng nhỏ có tên là “thành đức “và ‘đạt tài” mang ý nghĩa nho giáo đào tạo con người vừa có đức vừa có tài. Cổng Đại Trung gồm 3 gian, xây trên nền gạch cao, mái lợp ngói mũi hài, có hai hàng cột trước và sau, ở giữa là: “hàng cột chống nóc” . Bên trên cổng chính là hình hai con cá chép chầu bình móc ở giữa. Sở dĩ có hình ảnh cá chép bởi theo truyền thuyết Trung Quốc: cá vượt vũ môn. Hằng năm, trời tổ chức cuộc thi kén rồng ở của Vũ-con cá nào mà nhảy qua được một lúc ba đợt khác nhau thì lập tức có tiếng sấm nổ, cá biến thành Rồng. Và chỉ có cá chép là làm được điều đó. Ngày nay các bạn nhìn cá trê đầu nó bẹp vì người ta cho rằng trong cuộc thi nó đã không vượt qua được và đầu nó va vào đá. Con cá chày mắt đỏ vì nó không vượt qua nên khóc nhiều quá… Do vậy, của Vũ được dung để chỉ chốn trường thi: cá vượt vũ môn chỉ việc thi cử ,muốn đỗ đạt thi phải tích góp kiến thức, học tập chăm chỉ.

Qua cửa Đại Trung Môn,các bạn tiếp tục đến với khu vực thứ ba của Văn Miếu-Quốc Tử Giám- Khuê Văn Các.

Khuê Văn Các hay còn gọi là Gác Khuê Văn. Là một lầu vuông tám mái được xây dựng vào năm 1805 đời vua gia long triều Nguyễn. Gác dựng trên một nền vuông cao, lát gạch Bát Tràng, kiểu dáng kiến trúc độc đáo. Tầng dưới chỉ là bốn trụ gạch,bốn bề trống không. Tầng trên là kiến trúc gỗ từ mái, lớp và phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc cát vôi. Bốn cạnh sàn gỗ có diềm trạm trổ tinh vi, bốn góc sàn làm lan can con trên cùng bằng gỗ, bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống toả ra 4 phía.

Các cửa sổ tròn trong khung gỗ vuông nói lên quan niệm trời tròn-đất vuông âm dương hoà hợp của người xưa và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sức khoẻ.

Khuê Văn theo cách lí giải về thiên thể, Khuê là một ngôi sao trong chòm 28 sao, là đầu Bạch Hổ phương tây có 16 ngôi sắp xếp khúc khửu giống hình chữ văn. Chính vì vậy sao khuê được coi là sao chủ về văn học. Khuê Văn Các là biểu tượng cho thủ đô Hà Nội, biểu tượng của trí thức, biểu tượng cho Thủ Đô ngàn năm văn hiến.

Cạnh Khuê Văn Các là giếng Thiên Quang đầy nước trong xanh in hình Khuê Văn Các. Gác Khuê Văn xứng đáng với lời bình là một viên ngọc trong khu di tích Văn miếu-Quốc Tử Giám. Hai bên Khuê Văn Các là hai cửa Bí Văn (văn đẹp đẽ, trau truốt, sang sủa) và súc văn (văn hàm ý, súc tích có sức truyền cảm thuyết phục con người).

Mời các bạn nhìn sang hai bên giếng Thiên Quang, đó chính là khu nhà bia, một di tích có giá trị bậc nhất tại Văn Miếu -Quốc Tử Giám. Khu nhà bia gồm 82 tấm bia chiến sĩ được chia đều sang 2 bên giếng Thiên Quang. Trên bia có khắc rõ tên và quê quán của 1307 vị tiến sĩ.

Ý tưởng dựng bia được khởi sự từ đời Vua Lê Thánh Tông (1484) và các đời vua kế tiếp cho khắc tên các vị danh nhân lên bia nhằm biểu dương các vị tiến sĩ đỗ đạt và khích lệ tinh thần học hành thi cử. Ở mỗi bên khu nhà bia đều có một tòa đình vuông, với 4 mặt trống không, bên trong thờ bia nên còn được gọi là Bi Đình. Xưa kia hằng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây, cung sắp lễ vật cúng bái các vị tiên nho mà vẫn được khắc tên trên bia đá đến bây giờ. 82 tấm bia tiến sĩ là 82 phong cách điêu khắc, tuy kích thước khác nhau nhưng bia nào cũng được dựng trên lưng một con rùa, đầu ngẩng cao, 4 chân xoài ra trong tư thế đang bò lên.

Như các bạn đang thấy, bia gồm 3 phần là trán bia, than bia và đế bia.

Trán bia có hình khum vòm với các họa tiết lưỡng long chầu mạn nguyệt.

Thân bia: đây là phần quan trọng nhất của bia, phần trên cùng sát với trán bia khắc niên đại tổ chức khoa thi. Bên dưới là bài kí khắc theo chiều dọc của bia, đọc từ trên xuống dưới từ phải sang trái, với nội dung ca ngợi triều vua đang trị vì. Tiếp theo là năm tổ chức khoa thi, số lượng thí sinh thi, số lượng người đỗ, tên tuổi quê quán của người viết văn bia và người khắc bia. Phần quan trọng nhất là tên tuổi quê quán của các vị tiến sĩ được sắp xếp từ cao xuống thấp là đệ nhất tiến sĩ, đệ nhị tiến sĩ, đệ tam tiến sĩ.

Đế bia là hình một con rùa.

Có lẽ các bạn đang thắc mắc tại sao lại là rùa phải không ạ?

Vâng, theo quan niệm của người Việt thì rùa từ xa xưa đã gắn bó với người dân Việt Nam: Đó là thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa, rùa là sứ giả của Thủy Vương giúp Lê Lợi đại phá quân Minh… hơn thế rùa là một trong tứ linh, bụng phẳng tượng trưng cho đất mang yếu tố âm, mai khum tượng trưng cho trời mang yếu tố dương tượng trưng cho trời. Vì thế rùa hội tụ cả âm và dương, ngoài ra rùa còn có ý nghĩa là trường tồn và vĩnh cửu. Bia đá đặt trên lưng rùa nhằm khẳng định sự trường tồn của trí tuệ của tinh hoa dân tộc Việt.

82 tấm bia có ghi 1307 nhân vật trong đó có 17 trạng nguyên, 19 bảng nhãn, 47 thám hoa, 284 hoàng giáp và 938 tiến sĩ.

Người được khắc tên trên bia đầu tiên là ông Nguyễn Trực(1442)người cuối cùng được khắc tên trên bia là Phạm Huy Ôn(1779). Người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất là ông Bàn Tử Quang và đỗ khi tuổi mới 13, trẻ nhất là Nguyễn Hiền. Qua văn bia chúng ta vẫn thấy có những vị danh nhân vẫn được lưu truyền như nhà sử học Ngô Sĩ Liên đỗ tiến sĩ năm 1442, nhà ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm……nhìn vườn bia các bạn có thể thấy nhiều tấm bia với kiến trúc khác nhau bởi chúng được làm trong thời gian khác nhau.

Các bia khắc vào thế kỷ 15 có 14 chiếc, những tấm khắc vào thế kỷ 17 có 25 chiếc, những tấm bia loại ba được xây dựng vào thế kỷ 18. Ngoài ra còn có một số bia không thuộc loại nào. Các bạn có thấy những hàng chữ bị xóa trên bia không ạ? Đó là do khi triều Nguyễn lên cầm quyền do có những mâu thuẫn với triều đình trước đã cho xóa đi. Nếu ta tính từ khoa thi Nhâm Tuất (1442) tới khoa thi Đinh mùi 1789 thì phải có 124 kỳ thi và phải có 117 bia tiến sĩ. Nhưng sau bao chiến tranh thì hiện nay chỉ còn 82 bia.

Vâng, tôi và các bạn vừa được tham quan khu nhà bia một niềm tự hào của nền văn hoá Việt. Và sau đây xin mời các bạn tiếp tục đến với khu vực thứ tư của văn miếu đó là Đại Trung Môn và Nhà Đại Bái.

Đại Trung Môn là khu vực chính thờ Khổng Tử và các bậc hiền triết bao gồm Đại Thành, nhà Đại Bái và hai dãy Đông Vu, Tây Vu.

Cửa Đại Thành 3 giam 2 cột hiên trước và sau giống như cửa Đại Trung một hang giữa đỡ xà nóc, ba gian đều được lắp của gỗ sơn đỏ trên có hoạ tiết rồng, mây. Gian giữa đề ba chữ: Đại Thành Môn. Cửa Đại Thành là cửa của sự thành đạt lớn lao mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính mang một cái tên đấy ý nghĩa về học vấn, đạo đức. Hai bên cổng đại thành có 2 cửa phụ: kim thanh ở phía đông và ngọc chấn ở phía tây. Đây là 2 lối vào sân đại bái và điện đại thành, bởi ở đây trước kia chỉ tế Khổng Tử thì cổng đại thành mới mở. Chúng ta đang đứng trên sân đại bái, trước mặt là tòa đại bái và điện đại thành, 2 bên là dãy nhà đông vu và tây vu. Hai dãy nhà này đều gồm 9 gian. Trước đây 2 bên đều xây 5 bệ, trên có 5 khám bài thờ Thất Thập nhị hiền -đều là học trò của Khổng Tử. Kiến trúc cũ đã bị phá vỡ vào năm 1946, kiến trúc hiện nay đã được xây dựng lại năm 1954. Hiện nay ở đây trưng bày phòng tranh và bán đồ lưu niệm. Tòa Bái Đường là nơi tổ chức các nghi thức tế lễ, do vậy ở chính giữa đặt một hương án trên bày đồ thờ. Hai bên hương án có 2 con hạc đứng trên lưng rùa. Hạc là biểu hiện cho sự tinh túy, thanh cao. Hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện cho sự hài hoà giữa trời và đất, giữa hai cực âm dương. Hình ảnh hạc đứng trên lưng rùa còn thể hiện long thủy chung, biết tương trợ giúp đỡ nhau của những người bạn tốt khi gặp khó khăn. Phía trên hương án có bức hoành phi: “Vạn Thế Sư Biểu”-người thầy tiêu biểu của muôn đời. Bốn chữ này do vua Khang Hy tặng cho Khổng Tử. Ở gian đầu hồi phía đông còn bức hoành phi “cổ kim nhật nguyệt” và chuông bích ung đều cửa tư nghiệp Quốc Tử Giám quận công Nguyễn Nghiễm là cha của Nguyễn Du làm 1768. Bây giờ chúng ta tiếp tục đến với Điện Đại Thành.

Điện Đại Thành là nơi thờ Khổng Tử, Tứ Phối và Thập Triết.

Gian chính là nơi thờ Khổng Tử. Khổng Tử (551-479TCN) là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc. Ông sinh tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ(nay là huyện Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Khổng Tử là người sáng lập ra đạo nho ở Trung Quốc. Chủ yếu dạy về đạo làm người. Trong khi Đức Khổng Tử được người đời tôn là Vạn Thế Sư Biểu thì Tứ Phối là các học trò của ông lại được phối hợp thờ tại các Văn Miếu ở Trung Quốc và Việt Nam. Họ là Nhan Hồi ,Tăng Sâm, Tử Tư và Mạnh Tử.

Theo cánh tay tôi, các bạn đang nhìn thấy tượng thờ Nhan Tử – là học trò giỏi nhất của Đức Khổng Tử, đứng đầu trong khoa đức hạnh của Khổng. Được người đời xưng tụng là Phục Thánh Nhan Tử.

Cạnh là Thuật Thánh Tử Tư (cháu nội của Khổng Tử). Tử tư không theo học trực tiếp với ông nội mà theo học Tăng Tử-một học trò của Khổng Tử. Tử Tư tạo nên một phái lớn trong Nho Giáo là phái Tử Tư.

Đối diện là tượng thờ Tông Thánh Tăng Tử và Á Thánh Mạnh Tử.

Là học trò duy nhất hiểu được đạo Nhất quán của Khổng Tử và viết nên sách Luận Ngữ. Tăng Tử cũng được đời sau tôn lên làm gương hiếu thứ 3 trong nhị thập tứ hiếu.

Mạnh Tử là học trò của Tử Tư. Ông là người soạn sách mạnh tử và lập ra thuyết tánh thiện(nhân chi sơ tánh bổn thiện). Người ta tôn Mạnh Từ là bậc thánh đứng hạng thứ nhì dưới Khổng Tử.

Hai gian đầu hồi là 10 bia đá bài vị Thập Triết, là những người tiêu biểu cho 4 khoa: Đức hạnh, ngôn ngữ, chính trị, văn học.

Nhà tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, là nơi tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học, văn hóa, nghệ thuật dân tộc.

Hậu đường là nơi thờ Chu Văn An-một ngườithầy đức cao vọng trọng. Ông đỗ thái học sinh đời Trần nhưng không lên làm quan mà về quê dạy học, ông đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Dưới triều Trần Minh Tông ông được mời ra dạy học cho thái tử Trần Vượng. Đến triều vua Trần Dụ Tông, gian thần lộng hành, bị từ chối Thất Trảm sớ ông đã từ quan về ở ẩn tại Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương). Năm 78 tuổi, ông được truy tặng tước Văn Trinh Công ban tên thụy là Khang Tiết và cho thờ ở Văn Miếu.

Theo tay tôi là 2 mô hình Văn Miếu-Quốc Tử Giám xưa và nay.

Văn Miếu ngày xưa có diện tích rộng, bao gồm toàn bộ khu vực của bệnh viện Sanh pôn và Bảo Tàng Mỹ Thuật hiện nay và cả khu hồ văn rộng lớn.

Mời các bạn đến xem mô hình Văn Miếu-Quốc Tử Giám. Cùng với sự phát triển của đất nước thì khu vực này đã bị thu hẹp. Hiện nay diện tích của Văn Miếu-Quốc Tử Giám chỉ còn 54331m2. Còn kiến trúc được giữ lại trên nền đất nhà Thái Học gồm 2 tầng tầng 1 thờ Chu Văn An. Tầng 2 là nơi thờ 3 vị vua có công trong việc tu sửa và xây dựng Văn Miếu-Quốc Tử Giám là Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông. Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của nước ta. Trước đây chỉ có các vị Thái tử được học sau đó mở rộng quy mô hơn .Thời gian học tập là 3 năm, các thí sinh phải trải qua 3 cuộc thi :hương, hội, đình.

Xin mời các bạn đến với tầng 2 của nhà Thái Học.

Ở gian chính giữa thờ vua Lý Thánh Tông sinh năm 1023 ở ngôi được 17 năm, thọ 50 tuổi. Ông là người đổi tên nước ta từ Đại Cồ Việt sang Đại việt.

Bên tay phải các bạn là bàn thờ Lý Nhân Tông. Ngài là người học trò đầu tiên của Quốc Tử Giám(khi ông chỉ mới lên 5). Lý Nhân Tông sinh năm 1066 mất năm 63 tuổi. Ông ở ngôi được rất lâu(56 năm). Năm 1076 ông đã cho phép triều đình lập ra Quốc Tử Giám và cho chọn những hiền tài vào đào tạo, phục vụ cho đất nước.

Bên tay trái các bạn là tượng thờ vua Lê Thánh Tông. Ông là người kế thừa và nâng cao tầm vóc của Quốc Tử Giám. Ông lên ngôi được 38 năm, được người đời đánh giá là minh mẫn, sáng suốt, thâm tuý về văn, giỏi giang về võ …

Ba vị vua là tinh hoa của thời kỳ phong kiến Việt Nam khi biết lấy sự học làm cái gốc cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Vâng thưa các bạn,vậy là tầng 2 của nhà Thái Học đã kết thúc buổi tham quan di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám của chúng ta ngày hôm nay.

Tôi và các bạn đã cùng nhau đến với những giá trị nhân văn ý nghĩa, độc đáo, truyền thống hiếu học của dân tộc Việt ta. Đặc biệt là 82 tấm bia tiến sĩ, niềm tự hào của tinh hoa trí tuệ Việt Nam.

Qua buổi tham quan này các bạn đã có được những kiến thức về nền giáo dục Việt Nam đồng thời nâng cao niềm tự hào của nòi giống tiên rồng.

Vâng,và trước khi kết thúc buổi tham quan xin hỏi có bạn nào có thắc mắc gì không, hướng dẫn viên sẽ giải thích trong tầm hiểu biết.

Xin chào và hẹn gặp lại !

Kinh Nghiệm Tham Quan Văn Miếu Quốc Tử Giám 2023

Nguyễn Quang Trung

Travel Expert 28/02/2023

Văn Miếu Quốc Tử Giám là quần thể di tích lịch sử phong phú, đa dạng hàng đầu của thủ đô Hà Nội nói riêng và nước Việt Nam nói chung. Với những ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng, Văn Miếu là một trong 23 di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam.

Văn Miếu Quốc Tử Giám là quần thể di tích lịch sử phong phú, đa dạng hàng đầu của thủ đô Hà Nội nói riêng và nước Việt Nam nói chung. Với những ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng, Văn Miếu là một trong 23 di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam.

Văn Miếu Quốc Tử Giám có địa chỉ tại số 58 phố Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Có vị trí đắc địa nơi giao thoa 4 tuyến phố trung tâm của quận Đống Đa, Văn Miếu là nơi lưu giữ dấu ấn lịch sử văn hóa ngàn năm cổ kính và trang nghiêm, tĩnh mịch giữa lòng thủ đô, là địa điểm du lịch Hà Nội nổi tiếng.

Được khởi công xây dựng từ tháng 8 năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, Văn Miếu ngoài chức năng thờ các bậc thánh nhân của Đạo Nho còn là một trường học hoàng gia đầu tiên – nơi dạy dỗ các Hoàng thái tử. Học trò đầu tiên của trường học hoàng gia này là Thái tử Lý Càn Đức tức vua Lý Nhân Tông. Năm 1076, chính người học trò đầu tiên này sau khi lên ngôi đã cho lập trường dạy học ở bên cạnh Văn Miếu. Trường chỉ dành riêng cho con của các bậc vua quan quyền quý nên được đặt tên là Quốc Tử Giám.

Năm 1253 dưới thời vua Trần Thái Tông, trường Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc học viện. Vào thời này trường học được mở rộng và thu nhận cả con cái của thường dân tới học chỉ cần có sức học vượt trội xuất sắc. Thời vua Trần Minh Tông (1300 – 1357), Chu Văn An được mời giữ chức Quốc tử giám tư nghiệp tương đương với chức hiệu trưởng ngày nay. Ông có nhiệm vụ quản lý mọi hoạt động của Quốc Tử Giám và trực tiếp dạy học cho Thái tử Trần Vượng.

Năm 1484, nhà vua Lê Thánh Tông tổ chức khoa thi và cho dựng bia của những người thi đỗ Tiến sỹ. Tới thời Nguyễn, trường Quốc Tử Giám được xây dựng tại Huế, kể từ đó Văn miếu Thăng Long được cho sửa sang tu sửa thành Văn Miếu Hà Nội và được gìn giữ cho tới tận ngày nay.

Quần thể khu di tích Văn Miếu là một khu đất hình chữ nhật rộng lớn có diện tích 54,331m2 mang đậm kiến trúc xây dựng thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên Văn Miếu được bao bọc bởi 4 bức tường gạch vồ kiên cố.

Văn Miếu được thiết kế theo bố cục Nho giáo đăng đối từng lớp, từng khu theo trục Bắc Nam. Từ phía cổng lớn đi vào là tứ cột trụ và hai bia Hạ mã hai bên. Đi vào phía trong các khu vực Nội Tự được ngăn cách bởi hồ nước, sân đình rộng hay lối đi với khoảng không rộng 2 bên. Trước khi vào mỗi khu bạn sẽ bước qua hệ thống cửa bao gồm một cửa chính và hai cửa phụ hai bên. Tất cả các cửa cổng ra vào các khu Nội Tự, miếu, điện thờ, nhà Thái Học đều được thiết kế mái nóc với đôi rồng chầu mặt nguyệt mang đậm phong cách kiến trúc phương Đông cổ xưa.

Để đến được Văn Miếu Quốc Tử Giám du khách có thể lựa chọn một trong các cách như sau:

Văn Miếu Quốc Tử Giám mở cửa tất cả các ngày trong tuần kể cả ngày nghỉ cuối tuần hay lễ tết. Giờ mở cửa là 7h30 vào mùa đông, 8h vào các mùa khác còn giờ đóng cửa là 18h.

Giá vé tham quan Văn Miếu là 30 nghìn đồng/người/lượt vào thăm. Nếu thuộc một trong các đối tượng sau giá vé sẽ được miễn phí hoặc giảm giá 50%:

6. Hướng dẫn tham quan Văn Miếu

Để tham quan Văn Miếu trọn vẹn và đầy đủ nhất, du khách nên tham quan theo tuần tự các địa điểm như sau:

6.1. Hồ Văn

Nằm ngay phía trước cổng của Văn Miếu, hồ Văn hay còn gọi là hồ Giám hoặc hồ Minh Đường là điểm cần tham quan đầu tiên khi đến thăm Văn Miếu. Theo sử sách ghi chép lại hồ Văn là một công trình hồ rộng lớn, rộng tới 1 vạn chín trăm thước nằm trong tổng thể khu du tích Văn Miếu. Giữa lòng hồ Văn là gò Kim Châu. Phán Thủy Đường được xây dựng trên gò Kim Châu. Phán Thủy Đường là nơi diễn ra các buổi bình văn chương của các nho sĩ kinh thành xưa.

Do bị bỏ sót trong phân cách địa giới hành chính cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Hồ Văn ngày nay chỉ còn diện tích khoảng 12,297 m2. Tuy nhiên với ý nghĩa lịch sử văn hóa lớn lao, Thành phố Hà Nội đã chủ trương lập đề án tôn tạo, khôi phục gò Kim Châu, bảo tồn Hồ Văn và đưa vào danh sách các di tích thuộc tổng thể khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám.

6.2. Văn Miếu Môn

Văn Miếu Môn là cổng tam quan phía ngoài của khu di tích. Gồm có 3 cửa với cửa được xây 2 tầng cao to. Tầng trên có ba chữ Văn Miếu Môn bằng chữ Hán cổ xưa. Nằm ở phía trước Văn Miếu môn là tứ trụ nghi môn ở giữa và hai tấm bia Hạ mã hai bên. Tương truyền rằng xưa kể lại dù là khanh tướng hay công hầu khi đi qua Văn Miếu đều phải hạ võng, xuống xe ngựa đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ mã bên này sang tới tấm bia Hạ mã bên kia rồi mới lại đi tiếp. Như vậy đủ để hiểu Văn Miếu có vị trí tôn nghiêm trang trọng và có ý nghĩa lớn lao tới mức nào.

6.3. Đại Trung Môn

Đại Trung Môn là cổng thứ hai của Văn Miếu đi thẳng vào qua cổng chính Văn Miếu Môn. Đại Trung Môn gồm 3 gian được xây trên nền gạch cao và lợp ngói mũi hài theo phong cách mái đình thời xưa. Trước và sau Đại Trung Môn là không gian rộng lớn đầy cây cỏ, hồ nước, những con đường nhỏ song song nối dài tạo nên cảm giác thâm nghiêm, thanh nhã, tĩnh mịch của chốn “văn vật sở đô”.

6.7. Đền Khải Thánh

Đền Khải Thánh là công trình nằm sau cùng của khu di tích Quốc Tử Giám xưa kia. Đây là nơi thờ tụng cha mẹ Khổng Tử là Thúc Lương Ngột và Nhan Thị. Khu này thời trước là khu cư xá với 150 gian phòng dành cho giám sinh hay còn gọi là khu Thái học nơi rèn đúc nhân tài cho nhiều triều đại. Tuy nhiên đến năm 1946 trong một lần bắn phá đại bác của thực dân Pháp khu này đã bị phá hủy toàn bộ. Sau đó Đền Khải Thánh được cho xây dựng mới và được bảo tồn cho đến ngày nay.

Khi đi tham quan Văn Miếu du khách nên đặc biệt lưu ý những điểm sau:

Theo kinh nghiệm tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám, thời gian tham quan di tích này chỉ mất từ 1 đến 3 tiếng. Vì vậy du khách nên có một lịch trình tham quan thêm các điểm khác gần Văn Miếu như ga Hà Nội, chùa Quán Sứ, di tích lịch sử Nhà tù Hỏa Lò hoặc Tháp Hà Nội…

Đăng ký nhận ngay khuyến mãi

Thông tin khuyến mãi mỗi tháng sẽ được gửi vào inbox cho các chuyến đi của bạn

© 2023 – 2023 Bản quyền thuộc về chúng tôi CÔNG TY TNHH DU LỊCH VÀ DỊCH VỤ HÀNG KHÔNG JUSTFLY Số 15, ngách 102/28, Phố Hoàng Đạo Thành, Phường Kim Giang, Quận Thanh Xuân, Hà Nội Hotline: 0968 368 678 – Mail: [email protected] – Mã số thuế: 0107326124