Bạn đang xem bài viết Hướng Dẫn Kỹ Thuật Chăn Nuôi Heo Nái Giống (Phần 2) được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Uta.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Ngày đăng: 2023-05-31 03:39:25
I. Kỹ thuật xây dựng chuồng trai heo nái 1. Vị trí xây dựng chuồng heo náiCao ráo, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, thoát nước tốt, xa khu dân cư, trường học, chợ, thuận tiện giao thông, chủ động nguồn nước.
Mặt trước quay theo hướng Đông Nam (trục chuồng Đông Bắc – Tây Nam) hoặc hướng Nam (trục chuồng Đông Tây). Nếu không thể theo 2 hướng trên thì chuồng phải có tấm rèm để che nắng, che mưa.
Sân chơi hướng Đông thì nái nuôi con và nái chửa tận dụng ánh nắng buổi sáng tạo vitamin D3 giúp heo sinh trưởng, đồng hoá Ca, P tốt. Nắng buổi chiều dễ làm heo mệt mỏi, thở nhiều, bị bệnh mềm xương, con đẻ ra chân yếu vì nắng buổi chiều chứa nhiều tia tử ngoại.
Khoảng cách giữa các chuồng phải đảm bảo thông thoáng, vừa để có đủ ánh sáng chiếu vào vừa giúp cho điều hoà nhiệt độ chuồng nuôi.
3. Kết cấu chuồng và trang thiết bị trong chuồng heo nái3.1. Nền chuồng:
Phải được đầm nén kỹ và cao hơn mặt đất khoảng 30-45cm, có độ dốc phù hợp (3%) để tránh ẩm ướt, ngập úng. Nền nên láng bằng xi măng để dễ vệ sinh, nền chuồng nhanh khô, nhưng phải tạo độ nhám để tránh trơn trượt cho heo.
Trong khi sử dụng nếu nền chuồng chỗ nào hư hỏng thì phải sửa ngay không để lâu ngày vì không an toàn cho heo và khó sửa chửa cho sau này.
– Nền xi măng: thường dùng xỉ than trộn với đất sét rồi đầm chặt, sau đó phủ lên một lớp hồ khô (xi măng trộn với cát nhưng không trộn nước) rồi tiếp tục dầm chặt. Tiếp đó đổ lên một lớp vữa ướt dày khoảng 3cm. Cuối cùng rắc lên một ít xi măng mỏng rồi dùng bàn xoa gỗ tạo mặt phẳng
Kiểu nền này chi phí thấp, thi công dễ dàng. Tuy nhiên kiểu nền này dễ bị ngấm nước và heo ủi phá gây hư hỏng. Khi nền hư hỏng rất khó sửa chửa nên phải đập bỏ làm mới.
– Nền bê tông: là loại nền chắc chắn nhưng đầu tư khá nhiều tiền. Nền bê tông được kết cấu bởi nhiều lớp:
Lớp đất nện: ở dưới cùng,có độ dốc 1 – 3% để làm mặt thoát nước. Lớp đá xanh kích thước đá 4 x 6 cm, dày khoảng 10-15cm được đầm chặt. Lớp đá xanh kích thước 3 x 4 cm, dày khoảng 7-10cm, đầm chặt rồi đổ vữa khô lấp kín các lỗ hổng của đá. Nếu không dùng vữa khô thì có thể dùng cát lấp các lỗ hổng rồi đầm chặt, cũng có thể phun nước cho cát trôi vào các khe hở của viên đá.
Lớp trên cùng: là hỗn hợp bê tông gồm: Đá xanh kích thước 1 x 2cm hoặc 3 x
4cm, vữa xi măng tỷ lệ 1 xi măng 2 cát, lớp hỗn hợp bê tông này dày khoảng 3-
5cm.
Độ dày của lớp bê tông tuỳ thuộc vào độ tuổi và từng loại heo khác nhau để
cho việc đầu tư bớt tốn kém. Đối với heo cái sinh sản thì độ dày lớp bê tông khoảng
5cm, heo con sau cai sữa khoảng 3cm và heo thịt khoảng 4 cm.
– Nền sàn bằng nhựa: Đối với những trại chăn nuôi heo có quy mô lớn, heo nái nuôi con và heo con trong thời gian theo mẹ được nuôi trên nền sàn bằng nhựa. Loại nền sàn này có ưu điểm là sạch sẽ khô ráo, ấm áp và độ bền tốt nhưng giá thành khá đắt.
3.2. Xây dựng Tường của chuồng nuôiTường là bộ phận cơ cấu nên chuồng trại nuôi heo, có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả chăn nuôi. Khi xây dựng cần chú ý:
– Móng tường: Trước khi xây tường phải xử lý móng chu đáo, móng vững thì tường mới bền. Nếu đất làm chuồng yếu thì móng phải dày, chắc để tránh sụt nứt. Móng có đá hoặc tận dụng gạch vỡ để xây sẽ làm giảm chi phí trong xây dựng chuồng nuôi.
– Thân tường: thân tường chuồng heo phải kiên cố vì những heo nái khi hưng phấn sinh dục sẽ phá phách rất dữ dội. Tường đảm bảo độ cao phù hợp với từng loại heo để heo không nhảy ra ngoài được, không quá cao vì sẽ gây khó khăn cho người chăn nuôi khi muốn can thiệp trong chuồng.
Tường chuồng nên có những lỗ thông thoáng. Nếu chuồng ở đầu hồi thì tường phải xây kín, còn tường ngăn phía trong chuồng xây lửng để tăng thông thoáng, tường thường được xây bằng gạch ống và xi măng.
3.3. Hành lang và cửa chuồng heo– Cửa chuồng nuôi: cửa chuồng heo có chiều rộng khoảng 60cm, cao bằng tường vách. Cửa cao hơn mặt nền 1-2cm để dễ thoát nước từ hành lang chăm sóc, nhưng không cao hơn vì heo có thể dúi mõm vào đáy cửa để hất, gặm phá cửa.
Vật liệu làm cửa có thể bằng gỗ ván, sắt hay song sắt. Mỗi loại vật liệu đều có ưu điểm và hạn chế, vì vậy tuỳ điều kiện thực tế mà người chăn nuôi chọn loại vật liệu làm cửa.
Bản lề cửa bắt ăn sâu vào góc 2 tường, sức chịu lực tốt hơn gắn vào tường đơn. Hướng cửa mở vào trong heo khó ủi phá cửa, tránh hỏng chốt gài cửa, tránh nguy hiểm cho người khi đóng mở cửa.
Chốt gài cửa bố trí bên ngoài. Không nên bố trí bất kỳ chướng ngại vật gì ngoài cửa chuồng (như rãnh đường mương sâu hoặc máng ăn) sẽ làm cho heo sợ hãi khó lùa qua cửa chuồng.
– Hành lang: là lối đi dành cho người chăn nuôi đi lại cho ăn và chăm sóc heo. Hành lang cũng là đường vận chuyển heo từ ô chuồng này đến ô chuồng khác, hoặc chuyển heo đi cân xuất bán. Khi xây dựng cần phải đáp ứng những yêu cầu: Rộng khoảng 1,2m; có độ dốc để nước không đọng, đảm bảo độ ma sát tránh trơn trợt, hướng thoát nước về phía cuối chuồng.
3.4. Mái chuồng heo:Có thể làm bằng nhiều loại vật liệu khác nhau. Mái chuồng ngoài tác dụng che mưa nắng còn có tác dụng điều hoà nhiệt độ trong chuồng nuôi thông qua các vật liệu làm mái khác nhau. Mái chuồng cao vừa phải để đảm bảo thông thoáng và tránh mưa tạt vào.
– Mái lá: dùng phổ biến ở vùng nông thôn, trong những quy mô chăn nuôi nhỏ. Có thể dùng lá cọ hay lá dừa làm mái chuồng. Mái lá rất nhẹ nên không đòi hỏi phải xây chuồng trại chắc chắn. Chuồng lợp mái lá rất mát vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông, tuy nhiên mái lá rất mau mục nát gây dột nước vì vậy tuổi thọ mái lá không cao; thông thường khoảng 1-3 năm phải thay mới.
– Mái tôn: mái có độ bền cao, thời gian sử dụng dài, giá thành cao hơn mái lá. Mái tôn dễ hấp thu nhiệt nên vào mùa hè chuồng heo rất nóng, vào mùa đông lại rất lạnh. Vì vậy nếu làm mái tôn cần phải làm cao và thông thoáng và phải có biện pháp chống nóng vào mùa hè cho heo.
– Mái Phi – brô xi măng: thường sử dụng rộng rãi trong xây dựng chuồng do giá thành rẻ hơn mái tôn, nhưng do chất liệu tạo mái là xi măng nên rất nặng, vì vậy chuồng cần xây dựng chắc chắn, dễ ngấm nước gây gãy mục, ngoài ra mái này cũng hấp thu nhiệt lớn như mái tôn nên cần có biện pháp chống nóng cho heo vào mùa hè.
Các kiểu mái chuồng: Mái chuồng heo có thể xây dựng kiểu 1 mái, kiểu mái lỡ hay 2 mái đơn, 2 mái đôi (trại chăn nuôi quy mô lớn).
– Kiểu một mái: thoáng khí, mát nhưng dễ bị mưa tạt, gió lùa, nắng dọi vào chuồng.
– Kiểu mái lỡ: thoáng, mát, hạn chế mưa tạt, gió lùa nhưng tốn thêm chi phí lợp mái lỡ.
– Kiểu 2 mái đơn: tiết kiệm được diện tích so với chuồng mái lỡ, nhưng hơi nóng và ẩm độ trong chuồng khó thoát ra khỏi 2 mái, có thể bố trí thêm quạt hút.
3.5. Máng ăn và máng uống+ Máng ăn: có nhiều loại tuỳ theo kiểu chuồng và độ tuổi của heo
– Máng đúc cố định vào chuồng: thức ăn dư thừa khó cọ rữa, vệ sinh.
– Máng tự động bằng inox hay bằng gang, thường đặt trên mặt nền chuồng nên luôn khô ráo, sạch, độ bền cao; giá thành cao.
+ Máng uống: hiện nay dùng hệ thống cung cấp nước là núm uống tự động. nước được dẫn từ bể cao áp đến bể điều áp nên kiểm tra được vệ sinh nguồn nước. Chi phí đầu tư ban đầu khá cao.
3.6. Bể chứa nước:Trung bình nhu cầu nước cho tắm rửa, ăn uống một heo khoảng 50 lít nước/con/ngày. Lượng nước này tăng vào mùa nóng và giảm vào ngày mưa dầm. Vì vậy dự trù số lượng heo nuôi mà xây bể chứa. Để giảm chi phí nên xây thành nhiều bể, các bể thông nhau bằng các van. Các bể xây nổi trên mặt đất, có lỗ thoát nước để dễ cọ rữa và loại bỏ rác, cặn bã phù sa. Bể có nắp đậy bên trên tránh tạp chất rơi vào.
3.7. Diện tích chuồng nuôi: Phù hợp với từng giai đoạn sản xuất và độ tuổi của heoMùa hè nắng nóng thì mật độ nuôi thưa hơn mùa mưa lạnh. Đối với chuồng heo nái, có thể ngăn thành ô úm hoặc lồng úm riêng để có điều kiện sưởi ấm cho heo con trong giai đoạn đầu sau khi sinh.
II. Các loại chuồng nuôi heo sinh sản 2.1. Chuồng nuôi heo cái hậu bịHeo hậu bị có thể được nuôi trong chuồng nền hoặc chuồng sàn với hệ thống thông gió tự nhiên. Tuy nhiên vẫn phải lưu ý đến những yêu cầu về tiểu khí hậu chuồng nuôi, mật độ nhốt và diện tích nuôi cho 1 con.
2.2. Chuồng nuôi nái chờ phối sau cai sữa con và nái mang thaiChuồng thường được xây thành 2 dãy đối diện với hành lang ở giữa dùng để cho ăn, chăm sóc. Máng ăn ở phía trước chuồng, máng uống ở phía sau nếu là chuồng nuôi chung nhiều heo hoặc máng uống ở phía trước nếu là chuồng cá thể.
Heo nái được nhốt ở chuồng cá thể hay nhốt chung 2-3 heo nái trong một chuồng. Khuynh hướng hiện nay là nhốt ở chuồng cá thể để dễ theo dõi và giảm stress cho heo.
2.3. Chuồng nái nuôi conChuồng nái nuôi con hiện nay thường dùng chuồng lồng. Chuồng gồm 3 ngăn:
ngăn giữa dành cho heo mẹ và 2 ngăn ở hai bên dành cho heo con.
Tổng diện tích chuồng khoảng 3,96 – 4,32 m2; kích thước 2,2 – 2,4m x 1,8m chiều rộng (0,6m ở giữa cho heo mẹ và 0,8 và 0,4m mỗi bên cho heo con). Chiều cao của ngăn heo mẹ là 0,9 – 1m, chiều cao của ngăn heo con là 0,5 – 0,6m.
Máng ăn đặt cao hơn sàn chuồng 0,25m. Heo con qua lại tự do bú mẹ mà không sợ bị mẹ đè nhờ các thanh sắt đặt cách sàn chuồng 0,25 – 0,3m.
Thời gian heo nái đẻ trong chuồng lồng biến động theo quy cách quản lý và tận dụng chuồng của từng trại. Đa số các trại đều nuôi heo mẹ và heo con trong lồng cho đến khi cai sữa heo con.
2.4. Chuồng heo cai sữa– Chuồng nền bằng bê tông: heo dễ bị lạnh do nền chuồng ẩm ướtnên heo dễ
bệnh tiêu chảy, viêmphổi,…
– Chuồng sàn hở 1 phần: sàn cách mặt đất 0,6m; heo ngủ và ăn ở phần sàn liền, phần sàn hở có núm uống và là nơi tiêu tiểu.
III. Hệ thống xử lý chất thảiChất thải được thu gom và xử lý đúng cách để có được lượng lớn phân bón cho trồng trọt, đồng thời không gây hôi, không làm ô nhiễm đất và nước xung quanh trại. Hệ thống thu gom và xử lý chất thải (phân, nước rửa chuồng, nước tắm heo) gồm có đường mương, nhà ủ phân và các bể lắng gạn, hầm phân huỷ và túi sinh học.
3.1. Đường mươngĐường mương có độ dố 1 – 1,5% và được xây bằng bêtông chắc chắn. Bề rộng thay đổi tuỳ theo lưu lượng nước thải, biến động khoảng 0,2 – 0,5m.
3.2. Nhà ủ phân và bể lắng phân– Nhà ủ phân phải có nóc, tường che và đường mương xung quanhđể dẫn nước dơ về bể lắng phân. Đây là môi trường tốt cho ruồi sinh sản (nhất là khi phân bị ướt), vì vậy nên giữ phân khô, phủ đống phân bằng tấm nylon đen để tạo nguồn nhiệt làm phân mau hoai đồng thời giết được trứng ruồi hay vi sinh vật gây bệnh.
– Bể lắng phân: đường kính tuỳ thuộc vào khối lượng nước, phân chảy tới và khí hậu
Lượng phân hàng ngày có thể được ước tính theo cách đơn giản sau: 1m3 phân/50 nái và heo con; 1m3 phân/75 – 85 nái hậu bị, nái khô chờ phối; 1m3 phân/220 – 260 heo sau cai sữa
3.3. Hầm phân huỷ và túi sinh họcCác trang thiết bị này giúp xử lý chất thải, giảm mùi hôi đồng thời tạo khí mêtan dùng sinh nhiệt nấu nướng, chạy máy phát điện. Trong chăn nuôi gia đình (<50 heo) có thể sử dụng túi sinh học bằng plastic, trại quy mô lớn hơn xây dựng hầm phân huỷ bằng bê tông.
Từ khóa: kỹ thuật nuôi heo nái hậu bị, chọn heo nái hậu bị, chọn giống heo hậu bị, xây chuồng heo nái hậu bị, hướng dẫn xây chuồng heo nái hậu bị, nuôi heo nái hậu bị, hướng dẫn kỹ thuật nuôi heo mang thai và sinh sản, cung cấp heo giống Duroc , cung cấp heo đực Duroc , cung cấp giống heo Landrace , cung cấp heo đực Landrace , cung cấp heo giống
Theo Thạc sĩ Lê Đĩnh Nghi / Mua bán con giống
TIN TỨC KHÁC :Hướng Dẫn Kỹ Thuật Chăn Nuôi Ngan
Ngày đăng: 2023-12-22 00:27:56
Ngan thuộc lớp động vật chân màng, là loại thuỷ cầm có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh. Nông dân tỉnh ta thường nuôi ngan theo phương thức chăn thả. Từ khi thức ăn hỗn hợp viên ra đời và có dịch vụ trên thị trường. Một số gia đình đã mở ra hướng nuôi ngan tập trung theo phương thức nuôi nhốt hoặc vừa nhốt vừa thả.Ngan thuộc lớp động vật chân màng, là loại thuỷ cầm có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh. Nông dân tỉnh ta thường nuôi ngan theo phương thức chăn thả. Từ khi thức ăn hỗn hợp viên ra đời và có dịch vụ trên thị trường. Một số gia đình đã mở ra hướng nuôi ngan tập trung theo phương thức nuôi nhốt hoặc vừa nhốt vừa thả.
Lợi dụng tính chất đẻ liên tục của vịt mái cỏ lai ở các vùng Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu. Thả ngan trống vào đàn vịt mái tỷ lệ 1 trống 5 – 6 mái, lấy trứng ấp, sẽ cho ta thế hệ vịt lai ngan. Trống và mái có trọng lượng bằng nhau khi trưởng thành. Vịt lai ngan là con vật lai hỗn chủng (Hybrid) là kết quả lai đặc hiệu giữa con ngan ( Cairina Moschata L) và con vịt ( Anas Platyrhynchos L). Vịt lai ngan không sinh sản được ( bất dục), nhưng cho ta sản phẩm là thịt và gan béo rất có giá trị. Chất lượng thịt vịt lai ngan bằng thịt ngan. Hiện nay thịt vịt lai ngan đang được thị trường mến mộ, chấp nhận và được giá. Hiện tại nông dân tỉnh Nghệ An đang nuôi những giống sau :
1. Giống ngan nộiNgan nội hay còn gọi là ngan dé, ngan cỏ nuôi 3 tháng tuổi trọng lượng con mái đạt 1,8 – 2,2 kg, con trống đạt 3 – 3,5 kg. Sản lượng trứng là 60 – 80 quả/mái trong một năm. Mỗi năm thường đẻ 4 lứa, mỗi lứa từ 15 – 20 quả rồi lại ấp và nuôi con.
2. Giống ngan PhápĐược Trung tâm Khuyến nông tỉnh Nghệ An nhập về từ năm 1998 và hàng năm được nhập về với số lượng ít, đã phân biệt trống mái từ khi mới nở, phân bổ đều cho các huyện chăn nuôi nhân giống. Ngan Pháp có tính thích nghi cao với điều kiện tỉnh ta nên dễ nuôi, ít bệnh. Ngan Pháp nuôi 3 tháng trọng lượng 4,2 – 4,8kg, con mái đạt 2,3 – 2,8 kg. Tiêu tốn thức ăn 2,7 – 2,8 kg thức ăn cho một kg tăng trọng. Hiện nay Tỉnh ta đã nhập 2 dòng là dòng R31 màu lông đen và dòng R51 màu lông trắng, sản lượng trứng 160 quả/mái/2 chu kỳ đẻ trong một năm.
3. Vịt lai nganNhư trên đã nêu dùng ngan trống lai với vịt cho ra thế hệ vịt lai ngan nuôi thịt, con lai trống và mái bằng nhau. Khi mái trưởng thành 3 tháng tuổi trọng lượng đạt từ 2,5 – 3,5 kg.
Nếu lấy vịt trống lai với ngan mái. Con lai nở ra, khi nuôi thịt, con trống to nhưng con mái sẽ nhỏ. Được 3 tháng tuổi con trống đạt trọng lượng 3 – 3,5 kg, con mái đạt 2 – 2,2 kg. Cả trống và mái của vịt lai ngan đều bất dục.
KỸ THUẬT NUÔI NGAN (VỊT XIÊM) A – KỸ THUẬT NUÔI VỊT NGAN TỪ 1-56 NGÀY TUỔI:1. Chuẩn bị chuồng nuôi:
Trước khi nhận ngan về nuôi phải dọn sạch chuồng, nền chuồng, tường, lưới. Phải quét vôi nền chuồng và xung quanh tường cao 0,8 – 1 m.
Sau khi chuồng khô cho dăm bào, trấu, rơm hoặc rạ băm nhỏ làm độn chuồng và xông bằng foocmon + thuốc tím hoặc phun crerin. Nuôi nhốt kết hợp với chăn thả phải chuẩn bị vây ràng. Có thể nuôi trên sàn lưới.
Rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ sau đó ngâm vào dung dịch foocmôn 0,3 – 0,4% rồi để khô. Nuôi nhốt kết hợp với chăn thả nên sử dụng mẹt bằng tre hoặc nilong thay máng ăn cho ngan.
Chuồng nuôi phải thoáng mát, đủ ánh sáng, không có gió lùa.
Trước khi đưa ngan con vào phải sưởi ấm chuồng trước.
2. Nhiệt độ chuồng nuôi
Để đảm bảo cho ngan mạnh khoẻ nhiệt, độ chuồng nuôi khi ngan 1 – 3 ngày tuổi phải đạt 30 – 320C. Từ ngày tuổi thứ 4 trở đi, mỗi ngày giảm 10C cho tới khi đạt 200C.
Nhiệt độ chuồng nuôi được đo ở độ cao trên đầu ngan. Trung bình cứ 200W cho 75 con ngan và 140 con ngan cần 1 chụp sưởi. ở những nơi không có điện cần sưởi ấm bằng đèn tọa đăng, nước nóng, bếp trấu, bếp than nhưng phải hạn chế khí CO2.
3. ẩm độ không khí
ẩm độ thích hợp cho ngan con là 60 – 70%, song ở nước ta ẩm độ không khí rất cao có khi lên tới 80 – 90%. ẩm độ cao nguy hiểm cho ngan con, nền chuồng ướt làm cho ngan con cảm nhiễm bệnh dễ dàng, mật độ chuồng nuôi và ẩm độ không khí tỷ lệ thuận cho nên ẩm độ cao cần phải hạ thấp mật độ ngan và ngược lại. Khi độ ẩm cao cần phải đảo chất độn chuồng và cho thêm chất đôn chuồng khô hàng ngày để giữ cho ngan ấm chân và sạch lông.
4. Mật độ và độ lớn của đàn
Hai yếu tố mật độ và độ lớn của đàn tác động trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu đàn nhỏ có thể tăng mật độ và ngược lại, nuôi nhốt kết hợp với chăn thả còn phụ thuộc vào bãi chăn thả.
5. Chế độ chiếu sáng
Từ tuần lễ thứ 1 đến tuần thứ 2 chiếu sáng 24/24 h, sau đó là 18/24h. Cường độ ánh sáng cho ngan trong giai đoạn này là:
1 – 10 ngày tuổi 3W/m2
11 – 56 ngày tuổi 1,5W/m2. Trong thời gian này ban ngày sử dụng ánh sáng tự nhiên.
ở những nơi không có điện, cần thắp sáng bằng đèn dầu đảm bảo đủ ánh sáng để ngan đi lại ăn, uống một cách bình thường, chống xô đàn và đè nhau gây tỷ lệ chết cao.
6. Thông thoáng
Lượng cung cấp không khí phụ thuộc vào độ ẩm và quyết định bởi chất độn chuồng. Lượng không khí trao đổi phải đảm bảo sạch cho những khí thải của phân được đưa ra ngoài và nhiệt độ cần cho ngan ở mức cho phép. Trong giai đoạn ngan con 1 – 14 ngày tuổi, tốc độ gió không được quá 0,3 m/s.
7. Cung cấp nước uống
Ngan là loại thuỷ cầm cần rất nhiều nước uống, đảm bảo nước phải trong sạch và thường xuyên. Ngan ở tuần tuổi thứ nhất không cho uống nước lạnh dưới 10 – 120c, tuần tuổi thứ 2 và 3 không lạnh quá 6 – 80c và cũng cần hạn chế ngan uống nước trên 200c. Nhu cầu nước uống trung bình:
1 – 7 ngày tuổi: 120 ml/con/ngày.
8 – 14 ngày tuổi: 250 ml/con/ngày.
15 – 24 ngày tuổi: 250 ml/con/ngày.
22 – 56 ngày tuổi: 500 ml/con/ngày.
Nếu là nuôi chăn thả cho ngan uống nước những nơi nước trong, sạch, ở những nơi nhốt ngan ban đêm nên có máng nước cho ngan uống.
8. Thức ăn và nuôi dưỡng
Dùng thức ăn hỗn hợp dạng viên, hoặc thức ăn đậm đặc trộn với cơm, hoặc dùng các đơn nguyên như: Tấm, ngô, gạo lứt, đỗ tương, khô đỗ tương, cám gạo, bột cá nhạt, bột màu, bột đầu tôm, premix VTM, khoáng hoặc dùng cơm ( cho ngan con). Thóc luộc, thóc sống ( cho ngan choai, hậu bị, sinh sản) trộn với mồi tươi (30 – 40% tuỳ loại) như: Tôm, tép, cua, ốc, giun đất, don dắt, rạm, bọ đỏ . . . và các loại côn trùng khác. Có thể dùng bổ sung thêm rau xanh.
Chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1 – 21 ngày tuổi : Thức ăn đạt 18% đạm tiêu hoá, năng lượng 2.890 kcal.
+ Giai đoạn 22 – 56 ngày tuổi : Thức ăn đạt 16% đạm tiêu hoá, năng lượng 2.890 kcal.
Ngan thương phẩm thức ăn đạt 15% đạm tiêu hoá, năng lượng 3.000 kcal.
Không sử dụng khô dầu lạc trong khẩu phần ăn cho ngan vì dễ nhiễm Aflatoxin, riêng ngô nên sử dụng cho ngan nuôi giống không quá 20%, ngan nuôi thương phẩm không quá 30%.
* Kỹ thuật cho ngan ăn:
Trước khi cho ngan ăn phải dọn máng, quét bỏ những thức ăn thừa, hôi, thối và mốc, cho ngan ăn làm nhiều lần trong ngày để tránh rơi vãi và ôi chua, tách những con nhỏ cho ăn riêng để ngan phát triển đồng đều.
Ngan 28 ngày tuổi giữ trọng lượng trung bình ngan mái 0,6 kg, trống 0,8 kg/con. 56 ngày tuổi trung bình ngan mái 1,5 kg, trống 2,3 kg/con.
+ Giai đoạn ngan từ 1 – 29 ngày tuổi : Dùng thức ăn dạng viên hoặc gạo nấu thành cơm và trộn với thức ăn giàu đạm cho ngan ăn. Đối với ngan chăn thả khi cho ăn trên nền hoặc nilon phải rắc thức ăn đều và rộng để tất cả ngan được ăn một lúc. Nhu cầu lượng thức ăn hàng ngày cho ngan như sau :
Từ ngày tuổi 29 – 56 cho ăn 112 gr/con /ngày. ở giai đoạn 29 ngày tuổi trở đi mục tiêu là giữ cho đàn ngan giống phát triển trọng lượng theo biểu đồ, vì sự sai khác về trọng lượng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sau này. Nếu trọng lượng vượt phải giảm lượng thức ăn hàng ngày và ngược lại.
Đối với ngan nuôi thương phẩm cho ngan ăn tự do (cả nuôi nhốt và nuôi thả). Đến 63 ngày tuổi ( nuôi nhốt) 84 ngày tuổi ( nuôi chăn thả) là kết thúc đạt trọng lượng giết thịt.
9. Kiểm tra đàn ngan
Trạng thái đàn ngan cho phép ta đánh giá về sức khoẻ của nó :
– Ngan con phân tán đều khắp chuồng chứng tỏ đàn ngan khoẻ mạnh, thoải mái, nhiệt độ trong chuồng đạt yêu cầu.
– Ngan con dồn đống là do lạnh, nhiệt độ chuồng nuôi thấp.
– Ngan con nằm há mỏ, cánh dơ lên là do nhiệt độ chuồng nuôi quá cao
– Ngan không chơi hoặc nằm ở khu vực nhất định là chắc chắn có gió lùa.
– Ngan bị bết dính là do chuồng ẩm, chế độ nuôi dưỡng kém.
Kiểm tra sức khoẻ đàn ngan hàng ngày:
Những con ngan ốm yếu cần loại ngay ra khỏi đàn, khi đàn ngan biếng ăn, biếng uống, phân thay đổi phải báo ngay cho thú y. Kết thúc giai đoạn 56 ngày tuổi chọn giống để chuyển lên hậu bị. Để tỷ lệ đực/ mái cho các đàn giống là 1/4.
B – NUÔI NGAN HẬU BỊGiai đoạn hậu bị là giai đoạn từ 57 ngày tuổi đến khi bắt đầu đẻ, trong suốt thời gian này ngan phát triển dưới điều kiện tự nhiên. Ngan nuôi thức ăn hạn chế, cả số lượng và chất lượng làm sao đạt trọng lượng ở mức yêu cầu giống để đảm bảo có năng suất đẻ trứng cao trong giai đoạn sinh sản. Ngan đực và mái được nuôi chung một đàn.
1. Điều kiện khí hậu
Ngan đòi hỏi điều kiện khí hậu không ngặt ngèo, song cần lưu ý trong thời gian thay lông, ngan mẫn cảm với nhiệt độ thấp và mưa. Do đó chuồng nuôi trong thời gian này phải sạch và khô ráo, mùa hè phải có bóng râm cho ngan tránh nắng.
2. Bố trí sân chơi
Tốt nhất sân chơi cho ngan hậu bị là bãi cát, bãi cỏ. Trước khi sử dụng nên dọn sạch sẽ và tiêu độc. Sân chơi của ngan có thể là sân gạch hoậc bê tông. Song sân phải nhẵn để tránh những xây xát ở gan bàn chân, tạo cho nấm xâm nhập vào cơ thể, sân chơi phải được quét dọn thường xuyên.
Đối với ngan chăn thả thì bãi cỏ hoặc bờ đê, bờ ao là những nơi ngan tránh nắng và có lán che cho ngan tránh mưa.
3. Mật độ
Nuôi nhốt chuồng có sân chơi mật độ 4 – 5 con/m2
4. Cung cấp nước
Ngan hậu bị cần nước để bơi và uống nếu nuôi chăn thả, nếu nuôi khô thì cần nước uống nhưng phải sạch. Nếu chăn thả ở những vùng biển mặn thì phải cung cấp đủ nước ngọt cho ngan uống hàng ngày.
5. Thức ăn cho ngan
Từ 9 – 25 tuần tuổi yêu cầu thức ăn đạt Protein 14 – 15 %; năng lượng 2.890 Kcal. Lượng thức ăn như sau :
9 – 11 tuần là 112 gam/con/ngày.
12 – 15 tuần là 120 gam/con/ngày.
16 – 18 tuần là 125 gam/con/ngày.
19 – 21 tuần là 130 gam/con/ngày.
22 – 23 tuần là 135 gam/con/ngày.
Từ 24 – 25 tuần tuổi ngan ăn theo khẩu phần ngan đẻ.
Trong giai đoạn này vẫn thường xuyên kiểm tra trọng lượng ngan 2 tuần 1 lần, cân để điều chỉnh thức ăn sao cho mái đạt trọng lượng của giống: 24 tuần tuổi con mái đạt 2,2 – 2,3 kg/con, con đực đạt 4 – 4,5 kg.
Nuôi chăn thả có thể sử dụng thóc, ngô, khoai, đầu tôm tươi, don dắt, cua , ốc . . . thay thế cho thức ăn hỗn hợp. Song từ các nguyên liệu đó phải cân đối đủ đạm và năng lượng.
6. Kiểm tra sức khoẻ đàn ngan
Hàng ngày phải kiểm tra sức khoẻ đàn ngan từ sáng, có sự thay đổi nào về sức khoẻ của đàn ngan báo ngay cho thú y để xử lý.
7. Chất độn chuồng
Độn chuồng phải khô ráo, sạch sẽ, thường xuyên phải rắc thêm để ngan được sạch và độn chuồng không được mốc.
8. ánh sáng và chế dộ chiếu sáng
Giai đoạn từ 9 tuần đến trước khi ngan đẻ 5 tuần sử dụng ánh sáng tự nhiên.
Trước khi ngan đẻ 5 tuần đảm bảo 10h chiếu sáng 1 ngày
Trước khi ngan đẻ 4 tuần đảm bảo 12h chiếu sáng 1 ngày
Sau đó mỗi tuần tăng 1h cho tới khi đạt mức chiếu sáng 18h/ngày
Trước khi kết thúc giai đoạn ngan hậu bị 2 tuần, tiến hành chọn lọc thông qua ngoại hình, chỉ đưa những con đạt tiêu chuẩn giống vào đàn sinh sản, nếu nuôi nhốt thì chuyển vào khu chuồng nuôi đẻ. Khi chọn để lại tỷ lệ đực/mái : 1/5.
C – KỸ THUẬT CHĂN NUÔI NGAN ĐẺ (kỹ thuật chăn nuôi vịt xiêm đẻ)1. Điều kiện khí hậu nuôi ngan
Tạo điều kiện khí hậu thích hợp cho ngan đẻ. Nhiệt độ thích hợp nhất đối với ngan đẻ là 16 – 240c và độ ẩm là 60 – 80%. Chuồng nuôi và ổ đẻ phải luôn khô ráo và sạch sẽ.
2. Sân chơi
Sân chơi phải bằng phẳng, bãi cát, bãi cỏ bê tông. Sân chơi dốc ra ngoài để thoát nước, dọc sân chơi nên có cây bóng mát để chắn gió và che nắng. Nếu nuôi ngan khô thì song song với chuồng nuôi là máng uống nước có tấm ngăn tránh ngan vào bơi. Nếu sử dụng mương thì phải thường xuyên thay nước.
3. Mật độ
Đối với chuồng có sân chơi mật độ từ 3 – 4 con/m2 là phù hợp. Nếu mật độ cao quá làm giảm năng suất đẻ trứng và tiểu khí hậu chuồng nuôi xấu đi. Nhưng nếu mật độ thấp sẽ không kinh tế khi sử dụng chuồng trại. Nuôi chăn thả thì tuỳ theo vùng sinh thái mà để độ lớn đàn cho phù hợp.
4. ánh sáng và chế độ chiếu sáng
Cung cấp đủ 17 – 18h chiếu sáng mỗi ngày trong suốt giai đoạn ngan đẻ. Thời gian chiếu sáng không đảm bảo sẽ làm giảm sản lượng trứng. Cường độ chiếu sáng là 5w/m2
5. Cung cấp nước.
Nhu cầu phụ thuộc vào thời gian đẻ trứng từ 600 – 700 ml/con /ngày. Ngan nuôi có mương bơi hoặc nuôi có máng uống đều phải sử dụng nước sạch và đủ nước. Nếu nuôi chăn thả buổi sáng, buổi chiều tối nên để ngan bơi ở những hồ có nước trong, sạch để uống, giao phối và làm sạch lông. Mùa hè phải che máng uống tránh để ngan uống nước nóng.
6. Thức ăn và chế độ cho ăn.
Mức nhu cầu cho mỗi kg thức ăn của ngan đẻ: đạm thô 17 – 18 %, năng lượng 2.700 kcal.
Chuyển từ thức ăn ngan hậu bị sang thức ăn ngan đẻ được tiến hành 2 tuần trước khi ngan đẻ và tăng lượng thức ăn lên 10%. Khi ngan đẻ quả trứng đầu tiên tăng lượng thức ăn lên 15%. Khi đàn đẻ 5% tăng dần lượng thức ăn lên sao cho 7 ngày ngan ăn tự do theo nhu cầu. Thức ăn phải đảm bảo chất lượng, máng ăn phải để trong chuồng tránh mưa và sương làm mốc thức ăn.
Ngan chăn thả căn cứ từ nhu cầu trên để quy đổi thóc, đầu tôm, cua ốc . . . để đảm bảo nhu cầu cho ngan. Chú ý không nên chăn quá xa nơi nhốt ngan, nơi cho ăn phải ổn định sạch sẽ và đủ nước uống.
7. Thu nhặt trứng.
Chất độn ổ đẻ phải được thay thường xuyên, trứng thu nhặt vào buổi sáng từ 6 – 7h. Sau khi nhặt trứng nếu trứng bẩn phải rửa bằng Focmalin. Sau đó, trứng để ấp được đưa vào bảo quản ở kho lạnh.
8. Kiểm tra sức khoẻ đàn ngan
Hàng ngày buối sáng kiểm tra tình hình đàn ngan, nếu có sự thay đổi khác thường báo cho thú y xử lý.
9. Biện pháp vệ sinh thú y và phòng bệnh
9.1. Biện pháp vệ sinh thú y
Vệ sinh thú y và phòng bệnh là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình chăn nuôi vịt, ngan đảm bảo an toàn cho người sản xuất và đem lại hiệu quả kinh tế cao cho quá trình đầu tư chăn nuôi. Thực tế sản xuất cho thấy khi con giống và thức ăn đã được giải quyết tốt về căn bản thì vệ sinh thú y và phòng bệnh quyết định sự thành bại của nhà chăn nuôi.
Mặc dù được coi là vật nuôi có khả năng thích nghi cao nhất với điều kiện ngoại cảnh, chịu đựng được một số bất lợi của môi trường sống, ngan, vịt vẫn thường xuyên bị một số căn bệnh quan trọng tấn công, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế. Một số bệnh ở vịt, ngan khi đã bị bột phá sẽ nhanh chóng lây lan cho cả đàn, cả vùng rộng lớn và kéo dài trong một thời gian mới có thể dập tắt được như bệnh dịch tả vịt, bệnh phó thương hàn, bệnh tụ huyết trùng và gần đây là bệnh cúm gia cầm… Chính vì vậy những hiểu biết cơ bản về vệ sinh thú y và phòng bệnh ban đầu là cần thiết và hỗ trợ đắc lực cho người chăn nuôi.
9.1.1. Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi
Chuồng trại đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, duy trì mật độ đúng yêu và đủ diện tích sân chơi như đã quy định ở phần trên.
– Phải thực hiện nghiêm túc đầy đủ luật lệ về công tác phòng trừ dịch bệnh, trước cửa chuồng nuôi phải có hố khử trùng. Trong chuồng nuôi chỉ nên có 1 loại ngan – vịt và nếu có 2 đàn thì chỉ nên cách nhau không quá 7 ngày tuổi.
– Chuồng nuôi phải có chu kỳ luân chuyển hàng năm để có thời gian xử lý và trống chuồng. Vịt – ngan nhập về phải nuôi cách ly từ 15 – 20 ngày và giữ đúng các nguyên tắc thú y quy định.
– Chuồng trại, trang thiết bị chăn nuôi phải được rửa để khô ráo, xung quanh chuồng nuôi phải vệ sinh công nghiệp sau đó tiên hành vệ sinh tiêu độc định kỳ bằng một số thuốc sát trùng.
+ Vôi bột : rải vôi bột xung quanh và bên trong chuồng nuôi sau đó phải để 2- 3 ngày rồi quét dọn lại lần nữa (Biện pháp này ít dùng vì dễ làm cho vịt, ngan hô hấp hít phải bụi vôi bột).
+ Nước vôi : dùng nước vôi mới tôi quét nền chuồng, sân chơi và xung quanh tường, để khô sau đó rải chất độn chuồng và đưa vịt, ngan vao.
+ Dùng Formol (1 – 3%) : Phun toàn bộ nền và tường chuồng.
– Độn chuồng : Độn chuồng bằng phoi bào, trấu hoặc rơm rạ, cỏ khô cắt ngắn. Chất độn chuồng trước khi sử dụng phải được phơi khô, tiêu độc bằng các chất sát trùng kể trên, ủ một ngày, sau đó rải đều cho bay hơi hết mới đưa vào chuồng.
Máng ăn, máng uống, lò sưởi, cót quây vịt, ngan…, phải được rửa sạch sau đó sát triùng bằng một trong các loại thuốc sát trùng kể trên rồi chuẩn bị sẵn trong chuồng trước khi nhập vịt – ngan về.
9.1.2. Vệ sinh thức ăn, nước uống
– Thức ăn : Đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng khẩu phần. Tuyệt đối không cho vịt – ngan ăn các loại thức ăn ôi, mốc. Thức ăn bị nhiễm nấm mốc chứa nhiều độc tố của nấm mốc là một trong các nguyên nhân gây chết ngan – vịt đặc biệt là vịt – ngan con và làm giảm tỷ lệ trứng rất nghiêm trọng đối với vịt, ngan sinh sản. Không dùng các loại thức ăn có hàm lượng muối cao, trong thức ăn có thể sử dụng chế phẩm vi sinh như RTD- Lactovet, RTD- Men USB…
– Nước uống : Nước uống cho vịt phải là nước sạch, không dùng nước đục, nước ao, hồ tù đọng, nước giếng có hàm lượng sắt cao. Có thể dùng RTD – Iodine 10% (1ml/ 2lít nước uống) để khử trùng nước uống cho vịt, ngan, hoặc Chloramine B (1g cho 1 lít nước).
9.1.3. Vệ sinh sau từng đợt chăn nuôi
Chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi được cọ rửa sạch sẽ và khử trùng tiêu độc để chuẩn bị đợt chăn nuôi tiếp, để trống chuồng 7 – 15 ngày.
9.1.4. Xử lý chất thải và gia cầm chết
Từ trước đến nay hầu như sử dụng chất thải và phân của chăn nuôi gia cầm cho trồng trọt không qua sử lý cho nên ảnh hưởng rất lớn đến vệ sinh môi trường và dễ lây lan dịch bệnh.
Không sử dụng chất thải và phân của gia cầm khi chưa được xử lý.
Nước thải, nước rửa chuồng trại của chăn nuôi gia cầm theo hệ thống mương tiêu thoát về đến hố chứa và phải được xử lý trước khi đưa ra môi trường bên ngoài trang trại. Nếu lượng nước thải không được xử lý kịp thời sẽ gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và không an toàn cho sản xuất.
Phân và độn chuồng trong quá trình chăn nuôi được thu gom lại thành đống ở nơi quy định, xử lý theo phương pháp nhiệt sinh vật sau đó mới được sử dụng cho trồng trọt.
Xác gia cầm chết phải tiến hành huỷ theo phương pháp thiêu đốt, không nên chôn sẽ làm bẩn nguồn nước ngầm và ô nhiễm môi trường.
9.2. Chương trình phòng bệnh
Phải thực hiện ngiêm túc đầy đủ luật lệ về công tác phòng trừ dịch bệnh. Trước cửa phòng nuôi phải có hố khử trùng. Trong chuồng nuôi chỉ nên có 1 loại ngan và nếu có 2 đàn thì chỉ cách nhau 2 – 5 ngày tuổi.
Chuồng nuôi phải có chu kỳ luân chuyển hàng năm để có thời gian xử lý và trống chuồng. Ngan nhập về phải nuôi cách ly từ 15 – 20 ngày và giữ đúng các nguyên tắc thú y quy định.
Ngan ốm và yếu cần loại ngay ra khỏi đàn, xác ngan chết cần phải đưa ngay ra khỏi khu vực chăn nuôi và xử lý tuỳ từng loại bệnh. Phân cần thu lại và đưa vào đúng nơi quy định.
Lịch tiêm phòng và uống thuốc phòng
Dùng thuốc phòng chống nhiễm trùng rốn, các bệnh đường ruột và ảnh hưởng tác nhân Stress:
Sáng: + RTD- Amcolicilin
+ RTD- Úm gia cầm.
Chiều: + RTD- AC 110.
+ RTD- Stresroak.
– Tiêm phòng Kháng thể Viêm gan- dịch tả, tiêm bắp. Tiêm lặp lại lần 2 sau đó 10 ngày.
– Phòng vaccine H5N1 lần 1.
– Bổ sung RTD – ADB.Complex, RTD- Vitamin OS…
Bổ sung VTM và kháng sinh như : RTD- Vitamin OS, RTD- S.T.P, RTD- Amcolicilin, RTD- E.Biseptol để phòng tụ huyết trùng và phó thương hàn.
70 – 120 ngày
Bổ sung VTMảtTD- B.Complex (hạt), RTD- Vitamin OS… và kháng sinh RTD- S.T.P, RTD- Amcolicilin, RTD- E.Biseptol…
Chú ý sự biến động về thời tiết, sức khoẻ của đàn ngan để bổ sung RTD- Stresroak và các kháng sinh phòng bệnh cho ngan 1 – 2 tháng một lần nhưng phải thay đổi loại thuốc dùng.
180 – 190 ngày
Tiêm vac xin phòng dịch tả lần 3, bổ sung kháng sinh và VTM. Sau khi ngan đẻ 4 – 5 tháng tiêm vac xin dịch tả lần 4 và bổ sung kháng sinh để phòng các bệnh vi trùng 1 – 2 lần trong 1 tháng.
10. Những điều cần lưu ý chung
Ngan vẫn bị mang tiếng là con vật đặc biệt mẫn cảm với một số thuốc (Đimétridazole, Furoxone, arsenic). Việc sử dụng liều lượng thuốc quá cao có thể là nguồn gốc gây nên hậu quả trên. Xét cho cùng, lượng tiêu thụ thức ăn hàng ngày của ngan trên 1 kg trọng lượng cơ thể cao hơn so với gà, nhất là ở 4 tuần đầu. Các liều thuốc dùng để trị bệnh thường được tính bằng mg/kg trọng lượng sống và có tham khảo liều lượng dùng cho gà.
Ngan do hấp thụ nhiều thức ăn hơn nên cũng nhận vào một liều thuốc cao hơn so với gà, nên ngay từ lúc đầu, nếu ta không chú ý giảm tỷ lệ thuốc trộn vào thức ăn thì có thể dẫn đến mức trúng độc. Như vậy ta phải chú ý đến đặc điểm này, với những điều chỉ dẫn của cán bộ thú y về thời gian điều trị bệnh và liều lượng thuốc sử dụng.
– Những loại thuốc kháng sinh cần được sử dụng một cách cẩn thận.
– Khi tiêm cho từng cá thể, thì liều đối với ngan bao giờ cũng phải thấp hơn so với các loại gia cầm khác, và phải tính đúng với trọng lượng ngan. Cũng không quên rằng ngan cái nhẹ hơn ngan đực.
+ Virut
+ Thiếu dinh dưỡng
+ Strees khác nhau . . .
Không nên nhầm các loại bệnh trên với tác hại của hiện tượng rỉa thịt nhau và cũng không nên quên là vẫn có những đợt thay lông tự nhiên.
Đây là một vấn đề phức tạp và vẫn còn nhiều công việc phải làm để cho lĩnh vực này được sáng tỏ.
D. ĐỊNH MỨC CÔNG NHÂN – VẬT TƯ GIỐNG– chuồng trại- Thuốc phòng trị bệnh
1. Định mức công nhân
Công nhân chăn nuôi:
Người nuôi : 1.000 ngan thịt 1 ngày tuổi đến 84 ngày tuổi
1 người nuôi : 500 ngan hậu bị 84 ngày tuổi – 175 ngày tuổi.
1 người nuôi : 250ngan đẻ 175 ngày tuổi – 504 ngày tuổi.
2. Giống
Ngan nội : 6.000 đ/con
Ngan Pháp : 10.000 đ/con ( đã phân biệt trống mái tỷ lệ 1/4)
Tỷ lệ nuôi sống trung bình: 90% (Tại Nghệ An)
3. Vật tư
Thức ăn hỗn hợp:
– Định mức thức ăn cho ngan nuôi thịt đạt tiêu chuẩn xuất chuồng
Thức ăn hỗn hợp dạng hoàn chỉnh ( dạng bột hoặc dạng viên)
+ 1 – 21 ngày tuổi : 19 % đạm tiêu hoá, năng lượng trao đổi 2.890 kcal/kg TA.
+ 22 -56 ngày tuổi: 17 % đạm tiêu hoá, năng lượng trao đổi 2.890 kcal/kg TA
+ 56 – 84 ngày tuổi : 14 – 15% đạm tiêu hoá, năng lượng trao đổi 3.000 kcal/kg.
Định mức 3,4 kg thức ăn hỗn hợp cho 1 kg tăng trọng suốt quá trình nuôi thịt.
+ Ngan mái xuất bán 70 ngày tuổi ( 10 tuần tuổi)
+ Ngan trống xuất bán 84 ngày tuổi ( 12 tuần tuổi)
+ Nuôi ngan thương phẩm cho ăn tự do không hạn chế.
– Định mức thức ăn ngan nuôi hậu bị nuôi đẻ
9 – 25 tuần tuổi yêu cầu 12 % đạm tiêu hoá, năng lượng 2.890kcal/kg TA.
Tổng mức yêu cầu: 15,2 kg đến giai đoạn ngan đẻ
Tính đến : 25 tuần tuổi. Từ 24 – 25 tuần tuổi cho ngan ăn thức ăn ngan đẻ có 15 – 16 % đạm tiêu hoá, năng lượng trao đổi 2.700 kcal/ 1 kg thức ăn.
– Định mức thức ăn cho ngan đẻ
Yêu cầu thức ăn 15 – 16% đạm tiêu hoá, năng lượng trao đổi : 2.700 kcal/1 kg thức ăn.
Ngan Pháp bình quân trong quá trình đẻ ăn 150g/con mái/ngày.
Ngan nội bình quân trong kỳ đẻ ăn : 130g/con mái/ngày.
Tỷ lệ xơ trong thức ăn không nhỏ hơn 5 % khẩu phần và không lơn hơn 6 % khẩu phần ăn.
4. Định mức chuồng trại
Định mức đầu tư 500.000 – 700.000 đ/m2
– Nuôi ngan thịt thương phẩm trung bình : 4 – 5 con/m2 chuồng nuôi.
– Nuôi ngan hậu bị trung bình : 4 – 5 con/m2 chuồng nuôi.
– Nuôi ngan đẻ trung bình 3 – 4 con/m2 chuồng nuôi.
Quy mô đàn không nên quá 250 con/1 đàn cho tất cả các loại ngan
5. Định mức về thuốc thú y.
– Dịch tả ngan – vịt : 5.000đ/con/năm.
– Thuốc phòng tụ huyết trùng. 1.000đ/con/năm
– Thuốc điều trị các bệnh khác : 1.000 đ/con/năm.
Tổng cộng: 7.000 đ/con/năm.
6. Một số chỉ tiêu kinh tế của ngan Pháp và ngan nội.
– Số trứng đẻ trong 1 năm ngan Pháp : 164 quả; ngan Nội : 80 – 90 quả.
– Ngan Pháp đã khử gen tính đòi ấp. Tuy nhiên chưa triệt để khoảng 10% vẫn còn tính đòi ấp.
– Dòng R31 chậm đẻ hơn so với dòng R31 (ngan Pháp)./.
Từ khóa: kỹ thuật chăn nuôi ngan thịt, kỹ thuật nuôi ngan lấy thịt, quy trình chăn nuôi ngan, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi vịt xiêm cho năng suất cao, mô hình nuôi ngan cho hiệu quả kinh tế cao, cung cấp con giống, cung cấp ngan giống, mua bán vịt xiêm giống, mua bán vịt ngan giống, cung cấp vịt xiêm giống, trang trại sản xuất ngan giống, trang trại sản xuất vịt xiêm giống
TIN TỨC KHÁC :Kỹ Thuật Chăn Nuôi Vịt Chuyên Thịt Thương Phẩm
I. Giới thiệu một số giống vịt chuyên thịt và cách chọn giống
Tuổi giết thịt: 56 ngày tuổi
Tỷ lệ nuôi sống: 97,5-98,0%
Khối lượng cơ thể: 3,7- 3,8 kg/con
Tiêu tốn thức ăn/kg khối lượng: 2,5-2,6 kg
Tuổi giết thịt: 56 ngày tuổi
Tỷ lệ nuôi sống: 97- 98,5%
Khối lượng cơ thể: 3,5- 3,7 kg/con
Tiêu tốn thức ăn/kg khối lượng: 2,7-2,8 kg
Vịt thương phẩm SD 1 ngày tuổi
II. Chuẩn bị chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi vịt
– Con giống phải đảm bảo an toàn dịch bệnh, có nguồn gốc rõ ràng từ các cơ sở uy tín, có giấy kiểm dịch khi xuất bán.
– Chọn vịt con khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Lông bông, mắt sáng, bụng gọn, chân mập, cứng cáp, dáng đi vững vàng, có màu sắc lông tơ đặc trưng của giống. Nên đưa vịt con xuống chuồng nuôi trước 24 giờ tính từ lúc nở ra.
Chuồng trại phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của vịt.
Nên chọn nơi cao ráo, thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông và tránh gió lùa để dựng chuồng. Chuồng nuôi vịt cần có hệ thống thoát nước tốt. Bề mặt tường, trần và nền bằng gạch, bê tông, có láng xi măng bằng phẳng. Nền chuồng có độ dốc từ 7 – 100 để thuận tiện cho khâu dọn vệ sinh, tẩy uế. Mỗi chuồng cần có hiên rộng từ 1-1,5m để tránh mưa, nắng, gió. Mái được lợp bằng tôn, ngói hoặc các vật liệu địa phương, cần có độ dốc khoảng 300 trở lên để nước mưa có thể thoát tốt, tránh dột.
Xây dựng chuồng phải có đầy đủ trang thiết bị chiếu sáng, thông gió và điều kiện phục vụ cho công tác vệ sinh phòng dịch, an toàn sinh học.
Tùy thuộc vào quy mô và nguồn tài chính mà người chăn nuôi có thể lựa chọn đầu tư xây dựng hệ thống chuồng trại kiên cố hay đơn giản sao cho phù hợp với nuôi vịt chuyên thịt ở các giai đoạn tuổi khác nhau.
Kiểu chuồng nuôi vịt phổ biến và phù hợp là hệ thồng chuồng mở (đây là kiểu chuồng không xây bịt kín xung quanh chuồng). Chuồng nuôi vịt có khung chuồng, tường xây bằng gạch hoặc có thể sử dụng các vật liệu như tre, gỗ, mái tôn hoặc ngói, lá để làm chuồng.
Cần có diện tích sân chơi bằng 1,5-2 lần diện tích nền chuồng, có thể đổ cát hoặc lát gạch, có độ dốc để không đọng nước. Có thể có mương nước, ao hồ sạch, xây bể hoặc máng nước nhân tạo có độ sâu 20-25cm với kích thước tuỳ thuộc số lượng vịt, hàng ngày thay nước để nước luôn sạch cho vịt tắm.
Phải đảm bảo không có gió lùa trực tiếp vào vịt con, nhất là trong tuần tuổi đầu tiên.
Có thể sử dụng chuồng sàn cao 1,0-1,2 m.
Kích thước chuồng nuôi tùy vào số lượng vịt, thường có chiều rộng 6m, chiều dài 20m, có thể úm cho 1.500 – 2.000 vịt trong 2 tuần đầu.
Tường xây cao 1m bằng gạch, bên trên sử dụng khung lưới B40 để tạo độ thông thoáng. Phần khung có thể sử dụng bạt để che chắn vào ban đêm, ban ngày mở để tạo thông thoáng giúp nền chuồng khô ráo. Chuồng đầu tư đơn giản có thể sử dụng cót ép, phên tre để che chắn thay cho tường gạch.
Sân chơi có kính thước tối thiểu bằng kích thước chuồng nuôi.
Kích thước chuồng thường có chiều rộng 9-12m, chiều dài tùy vào số lượng vịt, nhưng phải đảm bảo mật độ tối đa 4-5 con/m2 nền chuồng.
Tường xây 3 mặt cao 0,5m bằng gạch, bên trên sử dụng khung lưới B40 để tạo độ thông thoáng. Phần mặt phía trước ngoài sân không xây để vịt đi lại tự do. Chuồng đầu tư đơn giản có thể sử dụng cót ép, phên tre để che chắn thay cho tường gạch.
2. Dụng cụ chăn nuôi vịt
Nền chuồng tốt nhất là bê tông hay lát gạch có độ dốc từ 7 – 100 để thuận tiện cho khâu dọn vệ sinh, tẩy uế…, hoặc sử dụng cát với độ dày 15 cm trở lên vì nền cát có ưu điểm hút nước tốt làm nền khô.
Sân chơi có diện tích tối thiểu bằng 1,5-2 lần diện tích chuồng nuôi. Nếu sân chơi nền đất dạng sân vườn có cây xanh thì diện tích sân cần rộng hơn.
Dùng vải bạt, cót ép hoặc phên liếp che xung quanh chuồng nuôi để giữ nhiệt, tránh gió lùa và mưa bão (nhất là giai đoạn vịt con).
Dùng máng ăn bằng tôn có kích thước 70 x 50 x 2,5 cm, sử dụng cho 70-100 con/máng. Từ tuần tuổi thứ 3 trở đi cho vịt ăn bằng máng tôn có kích thước 70 x 50 x 5cm hoặc máng nhựa hình chữ nhật.
Giai đoạn 1- 2 tuần tuổi: sử dụng máng uống tròn loại 2 lít.
Giai đoạn 3-8 tuần tuổi: sử dụng máng uống tròn loại 5 lít, dùng cho 30- 40 con/máng.
Có thể sử dụng máng nhựa hình chữ nhật, máng tôn, chậu sành, chậu nhựa có kích cỡ phù hợp với độ tuổi của vịt.
III. Mật độ
Có thể dùng hệ thống lò sưởi hoặc bóng điện đảm bảo cung cấp đủ nhiệt cho vịt con. Dùng bóng điện 75W/1 quây (60- 70 vịt). Mùa đông 2 bóng/1 quây.
Dùng cót ép quây, chiều cao 0,4- 0,5m, dài 4- 4,5m; sử dụng cho 60-70 con/quây, từ ngày thứ 7 nới dần diện tích quây. Từ cuối tuần thứ 2, bỏ quây để cho vịt vận động, ăn uống được thoải mái.
Tùy điều kiện chăn nuôi, mùa vụ và khí hậu cụ thể có thể quyết định diện tích chuồng nuôi, mật độ nuôi thích hợp để vịt sinh trưởng phát triển tốt, hạn chế lây nhiễm bệnh tật.
Vịt 0-2 tuần tuổi: 22 con/m2 nền chuồng
Vịt 2- 3 tuần tuổi: 12 con/m2 nền chuồng
IV1. Nhiệt độ, độ ẩm . Nhiệt độ, độ ẩm và chế chiếu sáng
Vịt 4- 6 tuần tuổi: 6- 8 con/m2 nền chuồng
Vịt 7- 8 tuần tuổi: 4-5 con/m2 nền chuồng
Đối với gia cầm non, đặc biệt đối với vịt con nhiệt độ có vai trò quyết định cho sự sinh trưởng, phát triển giai đoạn đầu. Nếu nhiệt độ thiếu, vịt sẽ còi cọc, rất dễ mắc bệnh và chết với tỷ lệ cao. Khả năng điều tiết thân nhiệt của vịt con giai đoạn đầu chưa hoàn chỉnh, sức đề kháng kém, dễ mắc bệnh và chịu ảnh hưởng nhiều vào điều kiện môi trường. Do vậy nhiệt độ phải đảm bảo cho vịt con đủ ấm. Người chăn nuôi có thể căn cứ vào trạng thái biểu hiện của đàn vịt mà điều chỉnh lại chụp sưởi cho vịt. Khi thiếu nhiệt, vịt tập trung gần nguồn nhiệt dồn chồng lên nhau. Nếu thừa nhiệt, vịt tản xa nguồn nhiệt, nháo nhác khát nước. Khi vịt dồn về một bên là do gió lùa. Trong trường hợp thừa, thiếu nhiệt và gió lùa, vịt kêu rất nhiều, cần quan sát tình trạng ăn uống, đi đứng của vịt con, nếu thấy con nào ủ rủ cần cách ly ngay để theo dõi.
2. Ánh sáng
Yêu cầu nhiệt độ trong quây úm: 1-3 ngày tuổi: 32 – 340C; 4-7 ngày tuổi: 28-300C; 8-14 ngày tuổi: 26-280C.
3. Chế độ chiếu sáng
Độ ẩm: Độ ẩm thích hợp để nuôi vịt giai đoạn úm trong khoảng 60 – 65%. Nếu kiểm tra thấy chất độn chuồng bị ướt phải thay ngay.
V. Thức ăn và phương pháp cho ăn 1. Thức ăn
Độ thông thoáng: Trong tuần đầu, lượng khí thải của vịt con không đáng kể nên mức độ trao đổi không khí thấp. Từ tuần thứ hai trở đi mức độ thông thoáng cần đáp ứng: 1m3 không khí/giờ/1kg khối lượng cơ thể. Điều kiện môi trường nuôi ngột ngạt có thể làm cho bệnh tật phát sinh, đặc biệt là bệnh nấm phổi. Chuồng nuôi luôn đảm bảo thông thoáng tốt, nhưng phải tránh gió lùa.
Bảng 1: Chế độ dinh dưỡng nuôi vịt thịt 2. Phương pháp cho ăn
Thời gian chiếu sáng trong 2 tuần đầu: 23-24 giờ/ngày, dùng bóng điện treo cách nền chuồng 0,3- 0,5m. Sau đó mỗi ngày giảm 01 giờ chiếu sáng đến khi đạt 14- 15 giờ/ngày. Từ tuần tuổi thứ 5 trở đi sử dụng ánh sáng tự nhiên.
Trong tuần đầu, số giờ chiếu sáng là 23-24 giờ/ngày, các tuần tiếp theo giảm giờ chiếu sáng và cường độ chiếu sáng. Nếu dùng ánh sáng nhân tạo nên dùng ánh sáng mờ đủ để vịt tìm đến máng ăn, máng uống, vịt vận động ít sẽ hấp thụ thức ăn nhiều giúp cho khả năng tăng khối lượng nhanh.
Phải đảm bảo thức ăn luôn mới, thơm, không bị mốc mọt. Thức ăn phải cân đối về thành phần giá trị dinh dưỡng để đáp ứng đủ nhu cầu sinh trưởng và phát triển của vịt trong từng giai đoạn.
Mục đích: giúp vịt lớn nhanh, lượng thức ăn phải đảm bảo thoả mãn được nhu cầu của vịt.
Để vịt ăn được nhiều, hiệu quả chuyển hoá thức ăn tốt cần cho ăn theo bữa, hết thức ăn mới cho ăn tiếp để thức ăn thường xuyên mới, có mùi thơm sẽ kích thích vịt ăn được nhiều.
Chú ý: Đảm bảo chất lượng thức ăn tốt, không bị nhiễm mốc.
VI. Nước uống và phương pháp cho uống
Giai đoạn 1-4 tuần tuổi: nuôi gột giống quy trình úm vịt con để sinh sản.
VII. Tiêm phòng vắc-xin Bảng 2: Lịch tiêm phòng vắc-xin cho vịt chuyên thịt
Sau 4 tuần tuổi có thể kết hợp với chăn thả. Có thể sử dụng các loại thức ăn có sẵn ở địa phương
Từ lúc 1 ngày tuổi đến khi giết thịt cho vịt ăn tự do, ăn càng nhiều càng tốt.
Cần phải cho vịt uống nước sạch. Trong 7 ngày đầu dùng máng uống 2 lít sau đó dùng máng 5 lít.
Nuôi vịt thịt cho ăn tự do nên lượng nước uống cũng phải cung cấp nhiều (thường gấp 2 lần so với lượng thức ăn), do vậy từ 5 tuần đầu đến giết thịt có thể cho uống bằng máng xây ngoài sân chơi, hoặc máng nhựa hình chữ nhật. Máng uống phải dễ cọ rửa, làm vệ sinh, vịt uống được nhưng không tắm được.
Chỉ sử dụng vắc-xin khi vịt khỏe mạnh
Nên bổ sung vitamin tổng hợp hoặc điện giải cho vịt uống trong thời gian sử dụng vắc-xin.
TS. Nguyễn Duy Điều Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
Sử dụng xi-lanh hoặc ống nhỏ đã được khử trùng (luộc sôi từ 5-10 phút)
Sử dụng đúng liều lượng, bảo quản vắc-xin theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Lọ vắc-xin sau khi sử dụng phải được luộc sôi 30 phút, sau đó có thể chôn hoặc để nơi quy định
Người tiêm vắc-xin phải được trang bị bảo hộ đầy đủ.
Hướng Dẫn Kỹ Thuật Nuôi Gà Thả Vườn
1.Chuẩn bị điều kiện nuôi:
Trước khi đem gà về nuôi cần chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện vật chất kỹ thuật như:
– Chuồng nuôi, rèm che, cót quây, chụp sưởi ấm, máng ăn, máng uống. Tất cả phải được khử trùng trước khi sử dụng từ 5-7 ngày.
– Chuẩn bị đầy đủ thức ăn, thuốc thú y cần thiết cho đàn gà.
– Chuồng nuôi đảm bảo thoáng mát mùa hè, kín ấm vào mùa đông.
– Nền chuồng thiết kế đúng kỹ thuật, cao ráo, thoát nước.
– Chất độn chuồng: Trấu, dăm bào sạch, dày 5cm -10 cm được phun sát trùng khi sử dụng.
– Đảm bảo lưu thông không khí trong chuồng nuôi.
a. Chuồng trại:
Chọn khu đất cao ráo, thoáng mát để cất chuồng gà. Nên cất chuồng theo hướng Đông hoặc Đông Nam để hứng được nắng sáng và tránh được nắng chiều.
Nếu nuôi nhốt hoàn toàn, chú ý mật độ nuôi thích hợp (8 con/m2 nếu nuôi gà thịt trên sàn, 10 con/m2 nếu nuôi gà thịt trên nền).
Nếu nuôi gà thả vườn,chuồng là nơi để tránh mưa nắng và ngủ đêm, mật độ vườn thả gà đủ là ít nhất 1 con/m2.
Mặt trước cửa chuồng hướng về phía đông nam. Sàn chuồng làm bằng lưới hoặc tre thưa cách mặt đất 0,5 m để thông thoáng, khô ráo, dễ dọn vệ sinh.
Rào chắn xung quanh vườn bằng lưới B40, lưới nilon, tre gỗ… tùy điều kiện nuôi của từng hộ. Ban ngày khô ráo thả gà ra sân, vườn chơi, buổi tối cho gà về chuồng.
b. Lồng úm gà con:
– Kích thước 2m x 1 m cao chân 0,5 m đủ nuôi cho 100 con gà.
– Sưởi ấm cho gà bằng đèn (hai bóng 75 W dùng cho 100 con gà).
c. Máng ăn:
– Khi gà còn nhỏ (1-3 ngày tuổi) rải cám tấm trên giấy lót trong lồng úm cho gà ăn.
– Khi gà 4-14 ngày tuổi cho gà ăn bằng máng ăn cho gà con.
– Trên 15 ngày cho gà ăn máng treo.
d. Máng uống:
Đặt hoặc treo xen kẻ các máng uống với máng ăn trong vườn. Thay nước sạch cho gà 2-3 lần/ngày.
e. Bể tắm cát, máng cát sỏi cho gà:
Gà rất thích tắm cát.
Đối gà nuôi chăn thả phải xây bể chứa cát, tro bếp và diêm sinh cho gà tắm. Kích thước bể dài 2 m, rộng 1 m, cao 0,3 m cho 40 gà.
Đặt một số máng cát, sỏi hoặc đá nhỏ xung quanh nơi chăn thả để gà ăn, giúp gà tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
f. Dàn đậu cho gà:
Gà có tập tính thích ngủ trên cao vào ban đêm để tránh kẻ thù và giữ ẩm cho đôi chân, tránh nhiễm bệnh. Do đó nên tạo một số dàn đậu cho gà ngủ trong chuồng.
Dàn đậu làm bằng tre, gỗ (không nên làm bằng cây tròn vì trơn gà khó đậu). Dàn cách nền chuồng khoảng 0,5 m, cách nhau 0,3-0,4 m để gà khỏi đụng vào nhau, mổ nhau và ỉa phân lên nhau.
Làm ổ đẻ cho gà để nơi tối. Một ổ đẻ cho 5-10 con gà mái.
Vườn chăn thả: 1 m2/1 gà.
2. Chọn giống:
– Nuôi thịt: Chọn giống gà Tàu vàng, gà Đông Tảo, gà Nòi, gà Tam Hoàng, gà Lương Phượng…..
– Nuôi gà lấy trứng thương phẩm: Chọn những giống gà đẻ nhiều như gà Tàu Vàng, gà Tam Hoàng, gà BT1, gà Ri….
Chọn giống gà con:
– Chọn gà con càng đồng đều về trọng lượng càng tốt.
– Chọn những con nhanh, mắt sáng,lông bông, bụng gọn, chân mập.
– Tránh chọn những con gà khô chân, vẹo mỏ, khoèo chân, hở rốn, xệ bụng, lỗ huyệt bết lông, cánh xệ, có vòng thâm đen quanh rốn.
Chọn gà đẻ tốt:
– Chọn con có trọng lượng không quá thấp, không quá mập, lúc 20 tuần tuổi đạt 1,6-1,7 kg thì rất tốt.
– Đầu nhỏ, mỏ ngắn đều, mồng tích to, đỏ tươi.
– Mắt sáng,lông mượt xếp sát vào thân, bụng phát triển mềm mại.
– Hậu môn rộng màu hồng tươi và ẩm ướt.
– Khoảng cách giữa xương chậu và xương ức rộng độ 3-4 ngón tay, giữa hai xương chậu rộng gần 2-3 ngón tay xếp lại.
3. Chăm sóc nuôi dưỡng:
Nên vận chuyển gà con vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, tránh những ngày mưa bão hay áp thấp nhiệt đới. Đưa gà vào chuồng úm, cho gà uống nước pha Electrotyle hoặc Vitamine C, chỉ cho gà ăn tấm nấu hoặc tấm, bắp nhuyễn ngâm sau khi gà nở ít nhất là 12 giờ, tiếp tục cho ăn uống như thế đến 2 ngày.Sang ngày thứ 3 thì pha với lượng tăng dần thức ăn công nghiệp hoặc tự trộn phụ phế phẩm.
Trộn thuốc cầu trùng vào trong thức ăn cho gà từ ngày thứ 7 trở đi, dùng Rigecoccin 1 gr/10 kg thức ăn (hoặc dùng Sulfamid trộn tỷ lệ 5%).Thay giấy lót đáy chuồng và dọn phân mỗi ngày sạch sẽ.
Rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ, quan sát tình trạng ăn uống đi đứng của gà, nếu thấy con nào buồn bã, ủ rủ cần cách ly ngay để theo dõi.
Dùng bóng đèn tròn 75W úm cho 1m2 chuồng có che chắn để giữ nhiệt, tùy theo thời tiết mà tăng giảm lượng nhiệt bằng cách nâng hoặc hạ độ cao của bóng đèn.
Quan sát thấy nếu gà nằm tụ quanh bóng đèn là gà bị lạnh, tản xa bóng đèn là nóng, nằm tụ ở góc chuồng là bị gió lùa và gà đi lại ăn uống tự do là nhiệt độ thích hợp.Thắp sáng suốt đêm cho gà trong giai đoạn úm để phòng chuột, mèo và để gà ăn nhiều thức ăn hơn.
Thường xuyên quan sát biểu hiện của đàn gà để kịp xử lý những bất thường xảy ra. Khi thời tiết thay đổi nên cho gà uống nước pha Electrolyte hoặc Vitamine C.
Do tập tính của gà thường uống nước cùng lúc với ăn, nên đặt máng ăn và máng uống cạnh nhau để gà được uống nước đầy đủ mà không uống nước dơ bẩn trong vườn.
Nếu là gà nuôi thịt thì không cần cắt mỏ. Đối với gà đẻ để giảm hiện tượng cắn mổ nhau thì nên cắt mỏ (chỉ cắt phần sừng của mỏ) vào tuần 6-7.
Chú ý: Không nuôi nhiều cở gà trong 1 chuồng, trước khi nuôi đợt mới cần phải sát trùng toàn bộ chuồng trại, dụng cụ.
4.Thức ăn cho gà:
Gà là một trong số con vật nhạy cảm, nên tuyệt đối không cho gà ăn thức ăn bị ôi mốc, nhiễm nấm, thối rửa.
Có thể sử dụng thức ăn công nghiệp hoặc tận dụng các phụ phế phẩm công nông nghiệp, sao cho đảm bảo các thành phần: Năng lượng, đạm, khoáng và vitamine. Khống chế lượng thức ăn và đảm bảo chất lượng thức ăn đối với gà hậu bị để gà không bị mập mỡ làm giảm sản lượng trứng.
Đối với gà thả vườn thì vấn đề khoáng và vitamine không quan trọng bằng gà nuôi nhốt, vì chúng sẽ tự tìm kiếm theo nhu cầu của cơ thể.
Sau giai đoạn úm có thể cho gà ăn thêm rau xanh. Nên nuôi thêm trùn đất và giòi là nguồn cung cấp đạm dồi dào cho gà.
– Ngày đầu tiên chỉ cho gà uống nước, ăn tấm hoặc bắp nhuyễn. Thức ăn mỗi lần rải một ít để thức ăn luôn thơm ngon kích thích tính thèm ăn của gà.
– Những ngày kế tiếp tập dần cho gà ăn sang thức ăn công nghiệp. Cho gà ăn nhiều bữa trong ngày, ăn tự do.
Nếu sử dụng máng treo để cho gà phải thường xuyên theo dõi điều chỉnh độ cao của máng để gà ăn một cách thoải mái và tránh rơi vãi thức ăn.
– Nước uống phải sạch và đầy đủ cho gà uống, gà sống lâu hơn nếu thiếu thức ăn hơn thiếu nước.
5. Vệ sinh phòng bệnh:
Vệ sinh phòng bệnh là vấn đề là công tác chủ yếu, đảm bảo “Ăn sạch, ở sạch, uống sạch”. Nên chuồng và vườn thả phải luôn khô ráo, sạch sẽ, không để ao tù nước đọng trong khu vườn thả.
Áp dụng nghiêm ngặt lịch phòng vaccine tuỳ theo từng địa phương. Ngoài ra, dùng kháng sinh phòng một số bệnh do vi trùng, đặc biệt đối với gà thả nền thì cần phải phòng bệnh cầu trùng khi cho xuống nền và thả vườn.
a. Những nguyên nhân gây bệnh
– Gia súc non, gia súc bị suy yếu, giống mẫn cảm với bệnh.
– Môi trường sống:
+ Thức ăn không cân bằng dinh dưỡng dễ làm con vật mắc bệnh.
+ Nước uống phải sạch.
+ Không khí, nhiệt độ ….
b. Sức đề kháng của cơ thể gia súc:
– Mỗi con vật đều có một hàng rào cơ học để tự bảo vệ cơ thể.
– Sức đề kháng do con người tạo bằng cách tiêm các loại vaccin phòng bệnh (sức đề kháng chủ động).
c. Các biện pháp vệ sinh phòng bệnh:
Vệ sinh phòng bệnh:
– Thức ăn tốt.
– Nước sạch.
– Con giống có khả năng chống đỡ với bệnh tật cao.
– Chuồng nuôi sạch.
– Quanh chuồng nuôi phải phát quang.
– Thực hiện tốt qui trình thú y về vệ sinh phòng bệnh.
Phòng bằng Vaccine:
Lưu ý khi dùng vaccine phòng bệnh:
– Chỉ dùng khi đàn gia cầm khỏe.
– Lắc kỹ vaccine trước và trong khi dùng.
– Vaccine mở ra chỉ sử dụng trong ngày, dư phải hủy bỏ.
Dùng vitamin để tăng bồi dưỡng cho gia cầm.
Phòng bằng thuốc:
– Bệnh ở đường tiêu hóa: Oxyteracilin, chloramphenicol…
– Bệnh đường hô hấp: Tylosin, Tiamulin,…
Không dùng một loại kháng sinh liên tiếp trong các liệu trình. Mỗi liệu trình phòng bệnh khoảng 3-4 ngày là đủ
Mộc Hoa Lê (sưu tầm)
Nguồn Công ty Việt Linh
Cùng Danh Mục : Liên Quan Khác
Kỹ Thuật Nuôi Ong Mật
Kỹ thuật nuôi ong mật
Sinh học ong mật
Đời sống của đàn ong: Ong mật sống thành đàn, trong đàn gồm có Ong chúa, Ong đực và Ong thợ.
Các thành viên của đàn ong:
Ong chúa: Bình thường mỗi đàn ong chỉ có một con ong chúa. Ong chúa của giống ong nội đẻ trung bình 400 – 600 trứng/ngày đêm. Ong chúa có hình dạng lớn nhất trong đàn: dáng cân đối, bụng thon dài, chúa mới đẻ có lớp lông tơ nhiều, mịn, bò nhanh nhẹn. Ong chúa là cá thể duy nhất có khả năng sinh sản để duy trì bầy đàn và điều tiết của hoạt động của đàn ong.
Ong đực: Có màu đen và làm nhiệm vụ duy nhất là giao phối với ong chúa. Ong đực có thể sống trong 50 – 60 ngày. Sau khi giao phối, ong đực bị chết hoặc khi thiếu ăn chúng sẽ bị ong thợ đuổi ra ngoài và bị chết đói.
Ong thợ: Có số lượng đông nhất trong đàn và có bộ phận sinh sản phát triển không đầy đủ. Ong thợ có cấu tạo cơ thể thích hợp với việc nuôi ấu trùng, thu mật và phấn hoa… Tuổi thọ của ong thợ chỉ kéo dài từ 5 – 8 tuần. Khi phải nuôi nhiều ấu trùng, lấy mật nhiều thì tuổi thọ giảm và ngược lại. Một số ong thợ làm nhiệm vụ trinh sát, bay đi tìm nguồn mật, phấn hoa và thông báo cho các ong thu hoạch biết đến hút mật chuyển cho ong tiếp nhận. Ong tiếp nhận tiết thêm men vào mật, quạt gió và chuyển dần mật từ các lỗ tổ ở phía dưới lên trên của bánh tổ.
Các giai đoạn phát triển của ong A.cerana:
Loại ong
Giai đoạn
Trứng (ngày)
Ấu trùng (ngày)
Nhộng (ngày)
Tổng cộng (ngày)
Ong chúa
Ong thợ
Ong đực
3
3
3
5
5
6
7 – 8
11
14
15 – 16
19
23
Chọn điểm đặt ong
a. Chọn điểm nuôi ong:
-Gần nguồn mật phấn hoa
-Nơi không phun thuốc sâu hóa chất.
-Không có dịch bệnh, ít hoặc không có ong rừng, chim thú hại.
-Địa hình thoáng mát, yên tĩnh, không gần đường giao thông, nhà máy đường, nhà máy hóa chất, nhà máy chế biến hoa qủa và không có hồ lớn bao quanh…
b. Cách đặt thùng đàn ong:
Thùng ong nên kê cao 25 – 30cm so với mặt đất, thùng nọ cách thùng kia ít nhất là 1m, cửa ra vào đặt các hướng khác nhau, chọn nơi khô ráo, thoáng mát như dưới hiên nhà, cạnh các gốc cây… Khống nên đặt trên sân gạch, nền xi măng, nơi qúa ẩm ướt hoặc gần chuồng gia súc.
Chia đàn tự nhiên: Một bộ phận ong thợ cùng với ong chúa tách ra, bay đi để thành lập một số ong mới. Chia đàn ong tự nhiên thường làm giảm năng suất mật.
c. Khi nào đàn ong chia đàn tự nhiên:
Điều kiện bên ngoài:
-Nguồn thức ăn (mật, phấn) nhiều.
-Khí hậu thời tiết tốt (không nắng, nóng, lạnh qúa)
Điều kiện bên trong đàn ong:Mật độ ong đông, ong chúa đẻ mạnh, cầu con nhiều, thức ăn dự trữ thừa và ong sống trong thùng qúa chật trội.
d. Hiện tượng của đàn ong trước khi chia đàn tự nhiên:
Trước khi chia đàn vài tuần, ong xây nhiều lỗ tổ ong đực và xây từ 3 – 10 mũ chúa ở hai góc và phía dưới bánh tổ.
Bình thường khi mũ chúa già thì ong chia đàn nhưng có khi mới có nền chúa hoặc ong chúa mới đẻ vào đã chia đàn.
Ong chia đàn từ 8 – 11 giờ sáng và 14 – 16 giờ chiều vào những ngày đẹp trời. Khi chia đàn, ong chúa cũ cùng với qúa nửa số ong thợ và một số ong đực ăn no mật rồi bay ra khỏi tổ, sau đó tụ lại ở hiên nhà, cành cây gần đó và quên tổ cũ, khi bắt đàn ong trở lại, nên cho ong vào thùng khác và đặt bất cứ nơi nào.
Khi chia đàn tự nhiên, ong không ồn ào và náo động như khi bốc bay.
e. Thời gian chia đàn tự nhiên:
-Ở miền Bắc: ong thường chia đàn vào tháng 3 – 4, một số ít chia vào tháng 10 – 11.
-Ở miền Nam: ong thường chia đàn vào tháng 10 – 11 và tháng 2 – 4(đầu và giữa vụ mật).
f. Xử lý ong chia đàn tự nhiên:
Trong trường hợp đàn ong ít quân: khắc phục việc chia đàn bằng cách thay ong chúa cũ bằng ong chúa mới vào lúc nguồn hoa phong phú, cho thêm tầng chân, quay mật hoặc chuyển cầu mật cho đàn khác, nới rộng khoảng cách cầu và bỏ vật chống rét ra ngoài, vặt các mũ chúa và cắt bỏ lỗ tổ ong đực.
Trong trường hợp đàn ong mạnh thì chủ động chia đàn: cần cho ăn đủ, chọn những mũ chúa thẳng dài ở vị trí trống như ở 2 góc và dưới bánh tổ để sử dụng sau khi ong chia đàn mới.
Đàn ong chia đàn tự nhiên thường ăn no mật và phần đông ong thợ trẻ đang độ tuổi tiết sáp, xây tầng nhanh, nên ngay sau khi ổn định có thể cho đàn ong đó xây tầng chân. Đàn ong gốc chỉ giữ lại 1 mũ ong chúa tốt nhất để thay chúa còn lại cắt bỏ tất cả các mũ chúa đi.
Ong bốc bay
a. Nguyên nhân và biểu hiện ong bốc bay:
Nguyên nhân bên ngoài: ong rừng, kiến hoặc hại khác quấy phá, trời nắng, nóng, khô hanh ; thùng ong bị đồ, bị chấn động mạnh sau khi di truyền…
Nguyên nhân bên trong: do đàn ong thiếu thức ăn, ong chúa ngừng đẻ không có cầu con. Đặc biệt khi đàn ong bị bệnh và bị sâu phá bánh tổ. Hoặc do chuyển nơi ở theo mùa vì ong còn mang tính dã sinh.
Trước khi bốc bay ong chúa giảm đẻ sau đó ngừng hẳn, đàn ong đi làm uể oải. Khi sắp bốc bay cả đàn đàn ong ồn ào, náo động, chúng ăn no mật và ùn ùn kéo ra khỏi tổ.
b. Thời vụ và thời gian ong bốc bay:
-Ở miền Bắc, ong thường bốc bay vào tháng 7 – 9 do thiếu ăn và nắng nóng, ong di chuyển chỗ ở từ vùng thấp lên vùng cao mát mẻ hơn. Tháng 10 – 11 ong lại bốc bay di cư về vùng thấp và tháng 1 – 2 bốc bay do đói rét.
-Ở miền Nam, ong bốc bay sau vụ mật vào tháng 7 – 9.
c. Biện pháp hạn chế ong bốc bay:
-Tạo đàn ong có chúa trẻ dưới 8 tháng tuổi, đẻ tốt.
-Thức ăn đủ (cả mật vít nắp và 1 – 2 cầu phấn).
-Duy trì đàn ong lúc nào cũng có cầu con, nhất là cầu ấu trùng.
-Phòng bệnh tốt, trị bệnh kịp thời và triệt để.
-Chống nóng, nắng, hanh khô.
Phương pháp nhập đàn ong, cầu ong
Nhập ong thợ từ đàn này sang đàn khác nhằm:
-Điều chỉnh thế ong cho đồng đều.
-Xử lý các trường hợp: bốc bay, mất chúa, tăng lực lượng xây bánh tổ.
-Thao tác cần nhẹ nhàng để tránh ong đánh nhau gây tình trạng mất ổn định trong đàn ong và những đàn xung quanh.
a. Các nguyên tắc nhập đàn ong, cầu ong:
-Nhập vào buổi tối.
-Nhập đàn ong không có chúa vào đàn ong có chúa.
-Nhập đàn ong yếu vào đàn ong mạnh.
b. Các cách nhập ong:
Nhập gián tiếp (ngoài ván ngăn)
-Khử hoặc tách chúa ở đàn bị nhập trước 6 giờ.
-Đến tối nhấc các cầu định nhập đặt ngoài ván ngăn của đàn ong được nhập.
-Sáng hôm sau nhấc ván ngăn ra ngoài và ổn định cầu mới nhập vào.
Nhập trực tiếp (trong ván ngăn): Buổi chiều, tách ván ngăn ra xa, đến tối đặt nhẹ cầu nhập vào hoặc thổi nhẹ cho ong già bay khỏi tổ, còn lại toàn ong non.
Phương pháp chia đàn ong:
Chia đàn nhân tạo nhằm giảm sự chia đàn tự nhiên và tăng số đàn. Có mấy phương pháp chia như sau:
a. Chia đàn song song
Sau khi chuẩn bị được ong chúa, mũ chúa, dùng một thùng mới có mầu sơn giống với mầu thùng cũ của đàn ong định chia.
Chia đều số cầu, quân nhộng, ấu trùng và thức ăn ra làm đôi, đặt 2 đàn liền nhau.
Để 2 đàn cách đều vị trí đàn cũ 20 – 30cm. Nếu đàn ong vào nhiều hơn thì nhích xa vị trí cũ, đàn nào vào ít thì nhích gần lại. Dần dần tách 2 đàn ra xa nhau, quay cửa tổ ra 2 hướng.
Cách chia này có ưu điểm là: 2 đàn được chia đều, phát triển nhanh, không phải mang ong đi, tiện kiểm tra, chăm sóc.
b. Chia dời chỗ:
Mang thùng mới đến gần đàn cơ bản, tách ra 2 – 3 cầu, chèn lại, rồi chuyển đi cách đó 1km, thường mang ong chúa đã đẻ đi. Nên tiến hành trước vụ mật 40 ngày.
c. Tách cầu ghép thành đàn mới:
Khi sắp tới vụ mật, có một số đàn ong mạnh muốn chia đàn tự nhiên, nếu không chia ong sẽ tự chia đàn hoặc đi làm kém. Cần lấy từ các đàn mạnh, mỗi đàn một cầu nhộng và quân để tách ra hình thành đàn mới. Vừa chống chia đàn, vừa tăng sản lượng mật, tăng được số lượng đàn. Ngày đầu chỉ nên lấy 1 cầu, ngày sau lấy 1 cầu của đàn khác và hôm sau lấy thêm 1 cầu của đàn thứ 3. Nếu ong chúa đẻ, đàn ghép sẽ phát triển nhanh.
Phương pháp chống nóng, chống rét cho ong:
Ta đã biết rằng: yêu cầu nhiệt độ trong đàn ong từ 33 – 350C, độ ẩm từ 60 – 80%. Cao hơn hoặc thấp hơn ong thợ sẽ làm những công việc sau:
-Quạt gió cho mát (nếu nóng qúa)
-Tụ lại rung cánh tạo nhiệt (rét qúa)
-Đi lấy nước về tổ (hanh, thiếu ẩm độ)
Chống nóng cho ong:
-Không để đàn ong ở ngoài nắng, không đặt cửa về hướng tây, không để đàn ong chật chội.
-Để máng có nước trong thùng ong vào những ngày nóng bức.
Chống rét, khô hanh cho ong:
-Điều chỉnh đàn ong trước mùa rét để có thế đàn đông đều, nên kết thúc nhân giống trước 30/11 để có thời gian nâng thế đàn tốt qua mùa đông.
-Cho ăn đầy đủ đến khi có mật vít nắp, nếu thiếu phấn kéo dài phải cho ăn bổ sung.
-Dùng rơm, lá chuối khô… làm vật chống rét để ở ngoài ván ngăn hoặc bên trên xà cầu.
-Bịt kín các khe hở của thùng ong, không để cửa tổ quay về hướng bắc.
Nếu khô hanh qúa cho uống nước pha ít muối với tỷ lệ 9/1000.
Phương pháp tạo chúa
Nuôi ong cần nhiều chúa mới đẻ thay thế chúa già, chúa xấu hoặc để chia đàn. Việc chủ động tạo chúa là biện pháp kỹ thuật quan trọng để tạo ra đàn ong mạnh, cho năng suất cao.
Chọn đàn làm giống và đàn nuôi dưỡng:
Chất lượng ong chúa phụ thuộc vào nguồn gốc bố mẹ và yếu tố nuôi dưỡng (đàn nuôi dưỡng, thức ăn). Vì vậy việc tạo chúa phải chọn được các đàn giống tốt và đàn nuôi dưỡng tốt, trong đàn ong chia ra đàn mẹ và đàn bố.
-Đàn mẹ: Là đàn cung cấp ấu trùng để tạo chúa, đàn mẹ phải đáp ứng được những nhu cầu sau:
+Tụ đàn đông (nhiều cầu)
+Năng suất mật cao.
+Không bị bệnh.
+Đàn ong hiền lành, không bay bốc, không hoặc ít chia đàn.
Ở những trại ong lớn thương chọn từ 2 – 3 đàn mẹ để tránh cận huyết. Trước khi lấy ấu trùng 1 – 2 ngày nên cho đàn mẹ ăn để ong tiết nhiều sữa nuôi ấu trùng.
-Đàn bố: Là đàn ong tạo ra ong đực sẽ giao phối với ong chúa tơ. Để ong đực ở độ tuổi giao phối thích hợp, cần tạo ong đực trước khi tạo chúa khoảng 20 – 25 ngày. Cho đàn bố ăn bổ sung, viện thêm cầu nhộng, cắt góc bánh tổ, đàn ong sẽ xây các lỗ đực và ong chúa sẽ đẻ trứng vào đó.
Tiêu chuẩn đàn bố giống như đàn mẹ; để tránh cận huyết mỗi trại nên chọn từ 3 – 5 đàn bố, đồng thời tiến hành diệt ong đực ở đàn mẹ và các đàn khác.
Đàn nuôi dưỡng: Là đàn nuôi ấu trùng ong chúa cho đến khi nở thành chúa tơ. Đàn phải thiếu nguồn mật tự nhiên, cần cho đàn nuôi dưỡng ăn trước khi tạo thành chúa 4 – 5 ngày. Cần rũ bớt cầu trong đàn nuôi dưỡng để ong bám trên cầu thật đông tiếp thu chúa nhiều hơn.
Phương pháp di trùng:
Dùng kim di trùng băng nhôm hoặc lông ngỗng vót nhỏ đưa vào phía lưng của ấu trùng, cố gắng lấy cả sữa chúa để ấu trùng không bị tổn thương; đặt nhẹ kim di trùng vào giọt mật, ấu trùng sẽ nổi lên, nhẹ nhàng rút kim ra và tiếp tục múc ấu trùng khác.
Nên chọn ấu trùng 1 ngày tuổi để tạo ong chúa là tốt nhất (vì tuổi ấu trùng càng cao thì chất lượng ong chúa càng giảm) nếu cầu mới xây nên cẩn thận khi di trùng vì đầu kim di trùng dễ đâm thủng đáy của lỗ tổ. Nếu bánh tổ qúa cũ, lỗ tổ sẽ hẹp rất khó múc ấu trùng.
Khi di trùng cần tiến hành nhanh và ở nơi kín gió, vào lúc thời tiết ấm áp, tránh ánh nắng chiếu vào sẽ làm khô ấu trùng khi thao tác.
Di trùng xong, xoay các chén sáp xuống phía dưới và đặt vào giữa đàn nuôi dưỡng đã chuẩn bị sẵn.
Trước khi di trùng 24 – 48 giờ, bắt ong chúa ra khỏi đàn nuôi dưỡng, rũ bớt cầu cho ong bám vào các cầu còn lại ; đồng thời trước khi di trùng 2 – 3 giờ, dãn 2 cầu giữa đàn ra khoảng 3cm tạo thành khe để ong non tập trung đến khu vực đó nhiều, chúng sẽ nhanh chóng tiếp nhận và nuôi dưỡng ấu trùng.
Trong tạo chúa, một số người áp dụng phương pháp di đơn nhưng phần lớn là áp dụng phương pháp di kép. Di đơn là phương pháp di ấu trùng vào mũ chúa một lần để ong nuôi dưỡng ấu trùng đó thành ong chúa. Di kép là di ấu trùng 2 lần vào chén sáp (tức là sau khi di trùng lần thứ nhất 24 giờ, người ta gắp bỏ ấu trùng cũ đi và tiến hành di ấu trùng khác vào) làm như thế, ấu trùng di lần 2 sẽ được ăn sữa chúa ngay nên phát triển tốt.
Chăm sóc đàn nuôi dưỡng:
Như trên đã nói, đàn nuôi dưỡng có ảnh hưởng lớn đến số lượng và chất lượng chúa, nên phải chọn những đàn mạnh từ 5 – 6 cầu, sau đó rút bớt 1 – 2 cầu để ong phủ kín trên các cầu còn lại. Cần tạo một khoảng trống rộng từ 2 – 3cm ở giữa đàn ong để tạo ong non tập trung tại đấy trước khi đặt cầu chúa vào 2 – 3 giờ. Nên cho đàn ong nuôi dưỡng ăn thêm trước khi di trùng và cho ăn đến khi vít nắp các lỗ mật.
Nếu tạo chúa vào lúc đủ phấn, mật thì không cần cho ăn, nếu thiếu thức ăn thì phải cho ăn thêm trước khi tạo chúa từ 2 – 3 ngày và cho ăn đến khi ong vít nắp mũ chúa, nếu thiếu phấn phải cho ăn thêm phấn hoa.
Sau khi di trùng 1 ngày, kiểm tra thấy mũ chúa đạt từ 15 – 20 cái là được nếu ít qúa phải di thêm, nếu nhiều qúa thì loạt bớt, kiểm tra để vặt hết các mũ ong chúa cấp tạo ở trên bánh tổ.
Sau 5 ngày, kiểm tra lần 2 để tiếp tục vặt bỏ các mũ chúa cấp tạo, nếu không chúa cấp tạo nở ra trước sẽ cắn hết các mũ chúa di trùng. Khi kiểm tra các cầu chúa cần nhẹ nhàng, tránh rung, lắc, nhất là khi mũ chúa mới vít nắp 1 – 2 ngày vì sẽ làm cho nhộng bị chết hoặc khi nở ra chúa sẽ bị xoăn cánh.
Bảo quản và giới thiệu mũ chúa:
Thông thường sau khi di trùng 11 – 12 ngày chúa tơ sẽ nở, do đó sau 9 – 10 ngày, các mũ chúa già có thể lấy đi để giới thiệu vào các đàn giao phối hoặc các đàn mất chúa. Trường hợp chưa sử dụng hết mũ chúa, phải cho mũ chúa vào lồng lò xo cách ly để tránh con chúa đầu tiên nở ra cắn phá các mũ chúa khác và được đặt trong đàn để ong ủ ấm. Một vài ngày sau chúa tơ ra đời, có thể bán hoặc giới thiệu cho các đàn ong bị mất chúa. Chúa tơ có thể sống ở trong lồng dự trữ từ 7 – 15 ngày.
Hiện nay, với ong nội người ta thường giới thiệu trực tiếp các mũ chúa vào đàn ong sản xuất chứ ít khi sử dụng các đàn giao phối vì số lượng ít.
Kỹ thuật tạo chúa đơn giản:
Những nơi nuôi ít ong không có dụng cụ tạo chúa, có thể áp dụng phương pháp đơn giản mà vẫn tạo được chúa có chất lượng tốt.
Sử dụng mũ chúa chia đàn tự nhiên:
Vào mùa chia đàn tự nhiên: nhiều đàn ong mạnh có thể xây từ 5 – 10 mũ chúa cần chọn mũ chúa dài, thẳng đẹp từ đàn đủ tiêu chuẩn để làm giống. Dùng dao sắc cắt trên góc mũ chúa 1,5cm rồi gắn vào đàn cần thay chúa. Không dùng mũ chúa của các đàn yếu, bị bệnh.
Kích thích ong xây mũ chúa chia đàn tự nhiên: Chọn đàn ong mạnh (đủ tiêu chuẩn) cho ăn 2 – 3 tối, viện thêm cầu nhộng già, rút bớt cầu cũ để ong tập trung hơn.
Khi kiểm tra các cầu chúa cần làm nhẹ nhàng, tránh lắc, rũ mạnh nhất là khi các mũ chúa vít nắp 1 – 2 ngày nếu không sẽ làm cho nhộng bị chết hoặc khi nở ra chúa bị xoăn cánh.
Tạo chúa theo phương pháp cấp tạo:
Cách làm: chọn đàn ong mạnh, có năng suất cao nhất trại để làm đàn giống và cho đàn ăn thêm sirô đường, rút bớt cầu ong để bám dày hơn trên các cầu ong còn lại. Đặt cầu có trứng mới đẻ vào giữa tổ. Hai ngày sau, kiểm tra để loại bỏ tất cả các mũ chúa trên bề mặt của bánh tổ và các cầu khác, chỉ để các mũ chúa ở phía dưới của bánh tổ, sau khoảng 8 – 9 ngày thì tách các mũ chúa để sử dụng.
Cũng có thể cắt bớt phần dưới của một bánh tổ theo đường kính dích dắc để ong xây nhiều mũ chúa ở chỗ bánh tổ có ấu trùng nhỏ. Nhưng cần lưu ý chọn các bánh tổ còn mới để ong dễ tiếp thu hơn.
Ngày nay, để có nhiều ong chúa chất lượng cao phục vụ cho sản xuất vào mùa nhân đàn, người ta tiến hành tổ chức sản xuất chúa theo phương pháp công nghiệp. Đây là một công nghệ mới trong sản xuất ong chúa, có nhiều ưu thế để nâng cao chất lượng ong chúa và đem lại hiệu qủa kinh tế cao.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ MỘT SỐ BỆNH CHO ONG
Một số bệnh ong thường gặp:
Cũng như các ngành chăn nuôi khác, bệnh ong cũng gây nên những tổn thất đáng kể cho người nuôi ong. Bệnh nhẹ thì ảnh hưởng đến thế đàn, giảm năng suất, bệnh nặng thì đe dọa đến sự tồn vong của đàn ong.
Hiện nay trên đàn ong nội thường xuất hiện 3 bệnh chủ yếu sau:
– Bệnh thối ấu trùng Châu Âu (bệnh thối ấu trùng tuổi nhỏ)
– Bệnh ấu trùng túi (bệnh nhọn đầu, bệnh ấu trùng túi)
– Bệnh ỉa chảy lây lan.
Các biện pháp phòng bệnh
Đàn ong sống trong một quần thể bầy đàn nên khả năng nhiễm và lây lan bệnh rất cao. Khi bệnh phát ra, nó không chỉ tiêu diệt từng cá thể con ong mà thường tiêu diệt cả đàn ong, thậm chí còn tiêu diệt cả một trại ong trong một thời gian ngắn.
Cũng như con người và các loại vật khác, con ong cũng chịu sự tàn phá của các loài vi khuẩn, vi rút và các loại ký sinh trùng… do đó việc phòng bệnh cho ong là hết sức cần thiết, nên lưu ý một số điểm chính sau:
Chọn điểm đặt:
chọn nơi thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông.
– Thùng ong phải kín đáo, không bị dột nát.
– Thường xuyên làm vệ sinh đàn ong.
– Đặt ong gần nguồn nước sạch…
Việc phát hiện bệnh sớm và có biện pháp tròng trừ kịp thời là yếu tố quyết định nuôi ong đạt hiêụ qủa kinh tế cao.
Phương pháp chẩn đoán bệnh
Muốn điều trị bệnh có hiệu qủa thì việc đầu tiên là phải chẩn đoán đúng bệnh. Việc kết luận bệnh nên dựa trên kết qủa chẩn đoán tổng hợp của các phương pháp chủ yếu sau:
– Chẩn đoán bệnh bằng phương pháp cảm quan:
Mỗi bệnh biểu hiện một số nét đặc trưng khác nhau và bằng phương pháp cảm quan ta có thể nhận biết bệnh một cách tương đối chính xác.
+ Với bệnh thối ấu trùng Châu Âu: nhìn trong lỗ tổ thấy các ấu trùng bị chết, ấu trùng chuyển từ màu trắng sang màu trắng đục. Khi nhấc cầu ong lên thấy ong xào xạc và chạy tụt xuống phía dưới của đáy tổ ; ong thợ có màu đen bóng do ấu trùng bị chết nên không có lớp ong non kế tiếp, trên mặt lỗ tổ có lỗ thủng nhỏ và lõm xuống.
+ Với bệnh ấu trùng túi (bệnh nhọn đầu): thấy lỗ tổ vít nắp hơi lõm xuống, một số cắn nham nhở, có nhiều ấu trùng nhọn đầu nhô lên miệng lỗ tổ.
+ Với bệnh ỉa chảy lây lan: nhìn thấy phân màu nâu sẫm trên lá cây hay quần áo phơi xung quanh các điểm đặt ong: ong non yếu ớt, bụng của ong trưởng thành trướng lên, ong sã cánh bò ra trước cửa sổ.
– Chẩn đoán thông qua việc nhận biết mùi đặc trưng của bệnh:
Mỗi bệnh có một mùi đặc trưng, thông qua đó người nuôi ong có thể nhận biết được bệnh đang xảy ra trên đàn ong là bệnh gì? Ví dụ:
+ Bệnh thối ấu trùng Châu Mỹ: có mùi khét đặc trưng của keo da trâu.
+ Bệnh thối ấu trùng Châu Âu: có mùi chua.
+ Bệnh thối ấu trùng túi: không có mùi…
– Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm:
Muốn chẩn đoán được bệnh chính xác, tốt nhất nên gửi bệnh phẩm về các có quan khoa học, các phòng phân tích để kiểm tra.
Trong qúa trình chẩn đoán, phải được tiến hành đồng bộ để có kết luận đúng: đâu là bệnh chính, đâu là bệnh kế phát để có biện pháp điều trị có hiệu quả.
Nguyên tắc điều trị bệnh ong
Khi điều trị cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
– Điều trị đúng thuốc, đúng bệnh:
Các bệnh do các vi khuẩn gây nên gồm các vi khuẩn Gram dương hoặc vi khuẩn Gram âm, mỗi một loại vi khuẩn có thuốc đặc trị khác nhau, nếu điều trị không đúng thuốc sẽ không khỏi bệnh mà còn làm hại đến sức khỏe của đàn ong. Cụ thể như bệnh thối ấu trùng Châu Âu, mầm bệnh là vi khuẩn Gram âm nên khi điều trị phải dùng thuốc đặc trị như Kanamycin, Stretomycin hoặc ertromycin chứ không được dùng thuốc Penicillin hoặc những thuốc đặc trị cho loại vi khuẩn Gram dương khác.
– Điều trị đủ liều:
Khi điều trị phải chú ý dùng liều cao ngay từ đầu, đồng thời dùng đủ liệu trình theo chỉ dẫn để đạt hiệu qủa cao nhất và tránh được sự quen thuốc. Hiện nay người nuôi ong điều trị bệnh thối ấu trùng không phải bằng cách pha vào sirô đường cho ăn mà họ dùng cách hòa tan thuốc và phun trực tiếp vào lỗ tổ. Nhưng nên chú ý rằng phương pháp này chỉ có hiệu qủa khi thuốc được phun với liều lượng gấp 2 lần so với liều cho ăn.
-Điều trị đúng phương pháp:
Tùy từng bệnh mà có phương pháp điều trị thích hợp để nâng cao hiệu qủa. Ví dụ như bệnh thối ấu trùng Châu Âu, trước đây điều trị bằng phương pháp cho ăn nước sirô đường hòa với thuốc kháng sinh, nhưng ngày nay bằng phương pháp phun trực tiếp vào bánh tổ. Điều trị bằng phương pháp này vừa giải quyết được bệnh nhanh vừa giảm ảnh hưởng của thuốc kháng sinh đến chất lượng mật ong. Song cách pha thuốc cũng phải được chú ý: có loại thuốc chỉ được pha bằng nước nguội, nếu pha bằng nước nóng thuốc sẽ bị phân hủy, thuốc không còn tác dụng điều trị.
Một số bệnh ong nội và phương pháp phòng trị
* Bệnh của ong trưởng thành: Do một loại bảo tử trùng gây nên (Nosema apis). Bệnh này hay xảy ra vào thời kỳ rét đậm, mưa nhiều, độ ẩm cao.
Triệu chứng:
-Ong trưởng thành ỉa lung tung vào các cửa sổ, vách thùng.
-Đàn ong chết nhiều, thưa quân, mật ít.
-Có một số ong bụng trướng lên, sã cánh bò trước cửa tổ.
Phương pháp điều trị:
-Luôn giữ cho đàn ong mạnh, đủ thức ăn.
-Khi phát hiện thấy đàn ong bị bệnh thì thay thùng, loại bớt cầu xấu cũ.
-Cho ong ăn thuốc Fumagillin với liều lượng 100 mg/40 cầu/1 tối, pha với 3 lít nước đường, cho ăn trong 10 ngày.
-Nếu không có thuốc Fumagillin có thể cho ăn sirô pha nước gừng tươi (9 – 10g gừng tươi/1 lít sirô cho 10 cầu/1tối).
*Bệnh của ấu trùng ong: Thường có 2 bệnh gây nên hiện tượng thối ấu trùng, đó là bệnh ấu trùng Châu Âu và bệnh thối ấu trùng túi. Cần phải phân biệt rõ 2 bệnh này thì mới có biện pháp điều trị hiệu qủa.
Bệnh thối ấu trùng Châu Âu: Bệnh do vi khuẩn Melissococus pluton gây nên. ấu trùng mắc bệnh ở tuổi 3 – 5, khi chết có mùi chua.
Ấu trùng bị bệnh chuyển từ màu trắng ngà sang trắng đục, sau thối nhũn xẹp xuống, quan sát lỗ tổ thấy vít nắp lỗ chỗ.
Bệnh lây lan do khi kiểm tra đàn ong, dùng dụng cụ, ong ăn cướp mật, do di chuyển và mua bán đàn ong.
Điều trị:
-Bằng phương pháp cho ăn:
+Streptomycin 1 lọ/10 cầu ; Kanamycin 0,5g/đàn, cho ăn liền 3 tối. Sau 1tuần không khỏi cho ăn tiếp 3 tối nữa.
+Lưu ý: Trước khi cho ăn nên loại bớt cầu bị bệnh nặng để nuôi ong bám đông trên cầu còn lại.
-Bằng phương pháp phun thuốc trực tiếp:
+Sử dụng 2 loại thuốc trên nhưng liều lượng gấp đôi, pha với nước sôi để nguội hoặc với nước đường loãng.
+Dùng bình phun có hạt loại nhỏ phun lên 2 mặt cầu ong. Cách 1 ngày phun 1 lần, phun làm 3 lần.
*Bệnh ấu trùng túi Sacbrood (do virut gây nên).
Triệu chứng: Phần lớn ấu trùng chết ở giai đoạn cuối vít nắp hoặc thời kỳ tiền nhộng (ấu trùng tuổi lớn) có nhiều ấu trùng nhọn đầu nhô lên miệng lỗ tổ. Phía đuôi ấu trùng hình thành túi nước có màu trong suốt hoặc vàng nhạt, ấu trùng chết không có mùi.
Điều trị:
-Thay chúa của đàn bị bệnh bằng chúa tơ hoặc mũ chúa được tạo ra từ những đàn không bị bệnh hoặc nhốt chúa đẻ 7 – 8 ngày, đồng thời loại bớt cầu bệnh.
-Cho ăn nước đường 3 – 4 tối hoặc di chuyển ong đến vùng có nhiều mật, phấn dồi dào để kích thích ong đi làm vệ sinh và dọn sạch các ấu trùng bệnh.
Tuy nhiên, cần phải hạn chế việc lạm dụng thuốc kháng sinh trong điều trị bệnh ong vì gây nên hiện tượng tồn dư chất kháng sinh trong mật ong. Muốn khắc phục được tình trạng trên, nên đầu tư vào công tác giống để nhanh chóng tạo ra giống ong có sức đề kháng bệnh cao, hoặc tổ chức các đàn ong khỏe trước mùa khai thác… Trong trường hợp đàn ong bị bệnh, nên tiến hành điều trị triệt để và phải chấm dứt việc dùng thuốc kháng sinh trước mùa khai thác mật từ 30 – 40 ngày.
Nguồn: Vietnamgateway
Cách bắt ong mật tự nhiên về nuôiNuôi ong lấy mật đã tạo một nguồn thu đáng kể cho nhiều hộ nông dân. Tuy nhiên, muốn nuôi ong phải tìm được nguồn giống tốt và đòi hỏi phải có sự đầu tư. Xin giới thiệu với bà con một số kinh nghiệm bắt ong trong tự nhiên về nuôi mà không tốn công sức và chi phí.
Bắt bằng hánh ong
Là biện pháp đặt các thùng, đõ ở những nơi thích hợp để ong tự về làm tổ. Ở các tỉnh miền Bắc, tháng 10-12 là mùa ong di cư từ vùng núi cao về vùng đồi thấp, tháng 3-4 là mùa ong chia đàn, ong thường tìm nơi thích hợp để làm tổ.
Chuẩn bị đõ ong phải được dọn sạch sẽ, kín và khô ráo, dùng sáp ong đun chảy đổ vào đõ để có mùi thơm hấp dẫn ong mau về hơn. Có thể treo đõ xung quanh nhà hoặc đặt dưới gốc cây to (cây to độc lập) ở trong rừng hoặc ở một số vách đá nơi có ong soi nhiều. Khi ong đã về đõ thì mang về nhà nuôi.
Bắt ong bay
Khi phát hiện thấy đàn ong bay thấp ngang qua, ta tung đất cát, ném quần áo hoặc té nước vào đám ong làm chúng hạ thấp độ cao, chờ ong đậu vào cành cây, bắt ong vào nón (chuyên dùng bắt ong) để vào chỗ tối, mát mẻ. Chiều tối chuẩn bị một thùng sạch, một ván ngăn, một cầu bánh tổ mới có đủ mật, phấn, ổn định ong vào thùng đặt nơi thích hợp, cho ong ăn thêm (pha thêm ít mật ong). Nếu không có bánh tổ viện thì nhốt chúa vài ngày, theo dõi thấy ong thợ lấy phấn về thì thả chúa ra.
Bắt ong trong hốc cây, hốc đá
Khi phát hiện thấy tổ ong trong hốc cây, hốc đá dùng rìu búa mở rộng cửa tổ. Dùng khói phun nhẹ vào tổ để ong dạt vào một góc, cắt lấy bánh tổ, bốc ong vào mũ lưới hoặc áo, khăn. Nếu tổ nằm ở vị trí sâu trong hốc cây to hoặc vách đá không bắt được, dùng đất ướt trát bịt kín cửa tổ và các khe hở lại. Sau 2-3 ngày đến mở lỗ tổ, ong sẽ tuôn ra, dùng nón bắt ong bay hứng lấy. Cũng có thể thổi băng phiến vào rồi nút chặt cửa tổ 10-15 phút, khi mở cửa tổ ong sẽ tuôn ra và bắt vào nón. Hoặc bịt kín các khe hở nơi ong ra vào, lấy một ống nứa nhỏ cắm vào lỗ tổ ong, trát đất xung quanh. Ong ra được nhưng không vào được và đậu ở ngoài khu vực cửa tổ, ta sẽ bắt quân.
Khi mang về nhà, rũ ong vào thùng. Bánh tổ được cắt bớt phần mật, phần con được buộc vào thanh xà hoặc khung cầu dây thép. Tối cho ong ăn thêm. Khoảng 3 ngày sau kiểm tra, nếu thấy ong đã gắn bánh tổ vào khung cầu hoặc xà cầu, cởi dây buộc ra. Lưu ý, nên bắt từng đàn một đến khi ong đi làm ổn định mới bắt đàn khác.
Bắt ong soi đõ
Bắt ong soi đõ (ong trinh sát) là bắt ong thợ có nhiệm vụ tìm nơi thích hợp rồi báo cho cả đàn bay tới xây tổ (tháng 11-12 ở những nơi có nguồn giống ong tự nhiên có nhiều ong soi đõ). Ong soi đõ thường bay dọc theo cột, vách nhà từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, ong bay chậm, đôi chân thứ 3 buông thõng xuống, khi bay phát ra các âm thanh to hơn các ong khác.
Khi bắt, dùng vợt may bằng vải sô có cần để bắt, không nên dùng tay vì dễ làm chết ong. Bắt được ong soi nhẹ nhàng thả ong qua cửa tổ vào trong thùng đã chuẩn bị tốt (khô sạch, thơm mùi sáp) rồi đậy nút cửa tổ lại chừng 10-20 phút, rồi thả ong ra. Sau một vài giờ đàn ong có thể kéo nhau về tổ. Dùng đõ mồi làm bằng gỗ mít bắt ong soi là tốt nhất. Đõ mồi có chiều dài 40-45cm, rộng 20cm. Mặt trước có lỗ cho ong ra vào, mặt sau có cửa và có nắp đậy để kiểm tra, kích thước cửa 10x25cm để khi ong về lấy ong ra dễ dàng. Trên nóc đõ làm gồ gề để ong xây bánh tổ được chắc.
Chú ý đàn hánh ong cuối cùng nên để nuôi trong đõ cho đõ ong luôn được khô và thơm mùi ong, để sang năm hánh tiếp dễ dàng hơn.
NTNN, 21/2/2006
Hướng Dẫn Cách Xây Nhà Nuôi Yến Đúng Kỹ Thuật
Đặc điểm nơi ở của chim yến
Chim yến là loài chim ưa sự hoang sơ, yên tĩnh. Chúng thường trú ngụ ở các ngôi nhà không sử dụng.
Do vậy, nhà nuôi yến nên xây dựng gần khoảng đất trống, đồng ruộng, sông, hồ. Tại khu vực này, chim tìm mồi dễ dàng hơn. Nhà nuôi yến mới phải được xây dựng trong vùng có nhiều chim yến sinh sống hoặc dưới chặng đường bay để thu hút chúng. Không xây tổ ở nơi dân cư đông đúc, ồn ào.
Nhà chim phải xây ở các vị trí an toàn tránh các loài dịch hại. Đặc biệt là đại bàng, quạ và chim cắt… là những loài chuyên săn mồi và ăn thịt. Các loài chim này sẽ làm chim yến sợ và bỏ đi các nơi khác an toàn hơn.
Một số kỹ thuật trong xây dựng nhà nuôi yếnDiện tích nhà nuôi yến phụ thuộc quy mô đầu tư và diện tích đất xây dựng. Tuy nhiên, nhà nuôi yến không nên quá nhỏ, tù túng. Kích thước tiêu chuẩn là 5 x 16; 5 x 20 m; 8 x 16 m; 6 x 20 m; 8 x 20 m.
Thiết kế nhà yến nên có tường 2 lớp độ dày 20cm. Phần chính giữa chèn xốp hoặc để trống giúp cách âm và cách nhiệt cho căn phòng. Trên các bức tường cần có các lỗ thông gió, để không khí đối lưu trong nhà.
Sàn nhà tốt nhất nên đổ bê-tông để chống thấm nước. Cách này tránh nước thấm gây ảnh hưởng các thanh gỗ ở tầng dưới. Mặt sàn nên xây có độ nghiêng, chênh để tránh nước ứ đọng.
Mái nhà nên được lợp tôn hoặc đổ bê tông mái bằng. Vật liệu lợp mái tùy thuộc vào thời tiết, khí hậu và đặc điểm của vùng nuôi yến.
Vách ngăn các phòng nuôi yến từ 3m – 3,5m để chim có không gian bay lượn rộng rãi, thoải mái. Việc xây dựng vách ngăn phòng giúp chim yến nhanh tăng bầy đàn và tranh giành lãnh thổ lẫn nhau.
Chuồng cu có độ cao tối thiểu trên 2m tính từ mái của sân thượng. Cửa miệng hang ra vào nhà của chim yến cần được tính toán hướng kỹ lưỡng trước khi đặt. Cửa hang thường có hình tròn hoặc chữ nhật. Vị trí đặt cửa hang hợp lý nhất là cách 40cm từ trên xuống.
Cập nhật thông tin chi tiết về Hướng Dẫn Kỹ Thuật Chăn Nuôi Heo Nái Giống (Phần 2) trên website Uta.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!